Đoàn làm việc của Chính phủ do Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên làm Trưởng đoàn làm việc tại tỉnh Vĩnh Phúc
Sáng ngày 10/5, tại Vĩnh Phúc, Đoàn công tác của Chính phủ do Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên làm Trưởng đoàn đã có buổi làm việc với tỉnh Vĩnh Phúc nhằm thực hiện Quyết định số 435/QĐ-TTg ngày 24/4/2023 của Thủ tướng Chính phủ phân công Thành viên Chính phủ chủ trì đôn đốc làm việc với các địa phương về tình hình sản xuất kinh doanh, đầu tư công, xây dựng hạ tầng và xuất nhập khẩu trên địa bàn.
Tham gia Đoàn công tác có đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài Chính, Bộ Xây dựng, Tập đoàn Điện lực Việt Nam và đại diện lãnh đạo các đơn vị chức năng thuộc Bộ Công Thương.
Về phía tỉnh Vĩnh Phúc có sự tham dự của đồng chí Hoàng Thị Thúy Lan - Bí thư Tỉnh ủy; đồng chí Lê Duy Thành - Chủ tịch UBND tỉnh và các đồng chí lãnh đạo Đoàn ĐBQH tỉnh; lãnh đạo HĐND, UBND tỉnh cùng lãnh đạo các Sở, ngành có liên quan của tỉnh Vĩnh Phúc.
Theo báo cáo của UBND tỉnh Vĩnh Phúc, GRDP quý I năm 2023 của tỉnh giảm 2,47% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: ngành công nghiệp, xây dựng giảm 6,69%, ngành nông nghiệp tăng 2,46%, ngành dịch vụ duy trì được mức tăng 8,91 so với cùng kỳ năm 2022. Sản xuất công nghiệp trong 4 tháng đầu năm 2023 gặp khó khăn do lạm phát gia tăng ở nhiều nước khiến người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu dẫn đến lượng hàng tồn kho tăng cao buộc doanh nghiệp phải giảm quy mô sản xuất dẫn đến chỉ số sản xuất công nghiệp 4 tháng đầu năm 2023 giảm 2,85% so với cùng kỳ năm trước. Về tình hình xuất nhập khẩu, tính đến ngày 15/4/2023, kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc ước đạt 4.414,32 triệu USD, tăng 8,88% so với cùng kỳ; kim ngạch nhập khẩu ước đạt 3.909,63 triệu USD, giảm 2,73% so với cùng kỳ; tình hình thực hiện kế hoạch đầu tư công cũng đã đạt được một số kết quả tích cực. Đồng thời, UBND tỉnh Vĩnh Phúc cũng đề xuất, kiến nghị với Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương về nhiều nội dung liên quan đến các ngành, lĩnh vực về kinh tế, xã hội nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho địa phương trong quá trình triển khai thực hiện.
Phát biểu tại buổi làm việc, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đánh giá cao tinh thần làm việc nghiêm túc, cầu thị của UBND tỉnh Vĩnh Phúc trong việc chuẩn bị nội dung trao đổi với Đoàn công tác. Báo cáo của tỉnh đã nêu khá đầy đủ, toàn diện tình hình thực tế của tỉnh thời gian qua; nhận diện được những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân, đồng thời đưa ra những kiến nghị, đề xuất tương đối cụ thể, toàn diện.
Bộ trưởng cho rằng, trong bối cảnh khó khăn chung của kinh tế thế giới và trong nước; song với sự chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh; sự vào cuộc kịp thời của các sở, ban, ngành và nhất là sự nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh, tình hình KT-XH 4 tháng đầu năm 2023 của tỉnh nhìn chung vẫn duy trì sự phát triển tương đối ổn định; Số doanh nghiệp thành lập mới và quay lại thị trường cao hơn số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh, rút lui khỏi thị trường; sức mua thị trường nội địa tăng cao (tăng 30,5% so với cùng kỳ); kim ngạch xuất khẩu tăng 1,75% (cả nước giảm 11,8%); khối lượng thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công quý I đạt 15,2% kế hoạch vốn đã giao (cao hơn bình quân chung cả nước là 10,35%); thu ngân sách đạt khá (33,9% dự toán); tổng vốn đầu tư cấp mới và tăng vốn đầu tư FDI tăng 22,6% so với cùng kỳ năm trước...
Tuy nhiên, với độ mở của nền kinh tế cao (gấp 2 lần cả nước) nên Vĩnh Phúc đã chịu ảnh hưởng rất mạnh khi nhu cầu thị trường thế giới bị suy giảm. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh quý I giảm 2,47% so với cùng kỳ năm trước (cả nước tăng 3,32%), đứng thứ 60/63 tỉnh, thành trong cả nước, trong đó khu vực có thế mạnh của tỉnh là công nghiệp giảm tới 8% (xếp thứ 10/11 tỉnh, TP trong vùng ĐBSH và thứ 50/63 cả nước); lạm phát ở mức khá cao (5,06%); huy động vốn giảm 4,49% và dư nợ tín dụng tăng thấp (2,77%) so với cuối năm 2022.
Theo Bộ trưởng, những tồn tại và hạn chế trên đều có những nguyên nhân khách quan và chủ quan; trong đó, những nguyên nhân chủ quan chủ yếu là: Việc chậm công bố quy hoạch (các quy hoạch ngành Quốc gia và địa phương) dẫn đến việc không thể triển khai các dự án đầu tư trên địa bàn; Sự chồng chéo, mâu thuẫn trong một số quy định của pháp luật hiện hành cũng làm ảnh hưởng đến tiến độ nhiều dự án; Tính chuyên nghiệp trong hoạt động sản xuất, xuất khẩu của không ít doanh nghiệp gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu chính ngạch; Tiếp cận vốn của doanh nghiệp nhìn chung còn gặp nhiều khó khăn; ảnh hưởng không nhỏ bởi tình trạng huy động trái phiếu doanh nghiệp không đúng quy định và thị trường bất động sản trầm lắng; Công nghiệp Vĩnh Phúc phát triển nhưng vẫn phụ thuộc vào doanh nghiệp FDI và chưa đảm bảo phát triển bền vững; việc làm, thu nhập của người lao động hạn chế làm giảm sức mua…
Để kịp thời khắc phục tồn tại, hạn chế nêu trên, từng bước phục hồi đà tăng trưởng kinh tế, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kế hoạch năm 2023 đề ra, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị cấp ủy, chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc cần quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền vận động sâu rộng và triển khai thực hiện nghiêm túc, quyết liệt, hiệu quả các nghị quyết, kết luận, chỉ đạo của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT-XH, cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh năm 2023, tạo sự thống nhất trong nhận thức, hành động của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội quyết tâm cao, vượt qua khó khăn thách thức để hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
Tập trung rà soát rà soát, nắm bắt kịp thời để tháo gỡ thực chất, hiệu quả các khó khăn, vướng mắc của từng doanh nghiệp, từng dự án đầu tư trên địa bàn (gồm cả dự án đầu tư công và đầu tư của doanh nghiệp), nhất là các dự án lớn trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, thương mại để đẩy nhanh tiến độ, sớm đưa vào hoạt động để phát huy hiệu quả đầu tư và gia tăng năng lực sản xuất mới trên địa bàn.
Hai là, khẩn trương hoàn thiện quy hoạch tỉnh, trên cơ sở tích hợp đầy đủ, kịp thời các chủ trương, định hướng đề ra trong Nghị quyết 30/NQ-TW ngày 23/11/2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quy hoạch tổng thể Quốc gia, Quy hoạch Vùng, các Quy hoạch ngành quốc gia và các đề án, chiến lược, kế hoạch phát triển các ngành, lĩnh vực của địa phương, tạo cơ sở, tiền đề quan trọng cho việc triển khai các dự án đầu tư trên địa bàn trong tương lai. Cùng với việc hoàn thiện Quy hoạch tỉnh, cần chú trọng rà soát, điều chỉnh, bổ sung kế hoạch sử dụng đất và các cơ chế, chính sách đặc thù (nếu có) của địa phương để tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư (hoặc các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra.
Ba là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, áp dụng chuyển đổi số trong các hoạt động quản lý, giám sát và điều hành của chính quyền các cấp, nhất là đơn giản hóa thủ tục hành chính và nâng cao hiệu quả cung cấp, sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 ở tất cả các thủ tục, hướng đến phát triển chính quyền số nhằm rút ngắn thời gian và tiết giảm thực chất chi phí cho doanh nghiệp và người dân, nâng cao năng lực cạnh tranh và lợi thế thu hút đầu tư của tỉnh.
Tập trung chấn chỉnh thái độ làm việc, nâng cao trách nhiệm của đội ngũ CBCC, VC trong tham mưu chính sách, xử lý công việc theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 280/CĐ-TTg ngày 19/4/2023; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong chỉ đạo, điều hành và ý thức chấp hành ở mỗi cấp; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường hậu kiểm. Tiếp tục mở rộng dân chủ, phát huy vai trò sức mạnh quần chúng thông qua Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên để tham gia giải quyết những việc khó, việc lớn ở địa phương.
Bốn là, tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công, tạo động lực và dư địa để phát triển các ngành, lĩnh vực liên quan (như vật liệu, cơ khí, chế tạo, thương mại, dịch vụ) và tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư… Chú trọng nghiên cứu, ban hành các cơ chế, chính sách nhằm thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa nguồn lực, đa dạng hóa các hình thức đầu tư, huy động tốt nhất các nguồn lực trong xã hội để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Tập trung rà soát, tháo gỡ thực chất những vướng mắc của các dự án bất động sản trên địa bàn nhằm sớm huy động các nguồn lực vào ngân sách địa phương; đồng thời quan tâm chỉ đạo giải quyết các vấn đề liên quan đến trái phiếu doanh nghiệp theo thẩm quyền.
Năm là, tăng cường đối thoại với doanh nghiệp, hỗ trợ tốt nhất các doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa) trong thực hiện các thủ tục hành chính (có liên quan đến cơ quan quản lý nhà nước). Chỉ đạo các ngành, địa phương trên địa bàn tích cực hỗ trợ doanh nghiệp về tiếp cận vốn, tiếp cận đất đai và triển khai các dự án đầu tư. Đồng thời, hỗ trợ các doanh nghiệp, người sản xuất trong các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu sản phẩm và tiếp cận, khai thác các thị trường (cả trong nước và nước ngoài) để phát huy hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam là thành viên và khai thác thị trường 100 triệu dân của Việt Nam thông qua việc: (i) Quy hoạch vùng trồng, vùng nuôi; (ii) Chỉ đạo tổ chức sản xuất theo Đề án xuất khẩu chính ngạch; (iii) Hỗ trợ thông tin thị trường… để mở rộng, đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng và mặt hàng xuất khẩu.
Sáu là, tập trung cao cho nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng trên địa bàn, nhất là hạ tầng giao thông, viễn thông, logicstics; hạ tầng thương mại, dịch vụ (cả truyền thống và hiện đại) gắn với đô thị hóa và hoạt động du lịch. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác xúc tiến thương mại, đặc biệt là quan tâm phát triển thương mại điện tử xuyên biên giới, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số và các kênh thương mại điện tử nhằm khai thác có hiệu quả thị trường tiêu dùng nội địa và mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo động lực mới cho sản xuất và đầu tư trên địa bàn.
Về các kiến nghị, đề xuất của tỉnh Vĩnh Phúc, theo báo cáo của tỉnh có 3 nhóm kiến nghị, đề xuất với Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương, bao gồm: Nhóm vấn đề kiến nghị, đề xuất với Chính phủ về cơ chế chính sách tiếp tục hỗ trợ doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng của dịch, bệnh COVID-19 trong năm 2023; nhóm vấn đề đề xuất, kiến nghị với các các Bộ, ngành Trung ương và nhóm kiến nghị tháo gỡ vướng mắc đối với các Luật, Nghị định liên quan. Tại buổi làm việc, đại diện các Bộ, ngành liên quan đã trao đổi, giải đáp về một số kiến nghị của tỉnh. Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, sau buổi làm việc hôm nay, Bộ Công Thương sẽ tổng hợp đầy đủ các kiến nghị của tỉnh và ý kiến của các Bộ, ngành liên quan để báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo tháo gỡ nhằm hỗ trợ địa phương tiếp tục phát triển bền vững trong thời gian tới.
Sáng cùng ngày, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cùng đoàn công tác của Chính phủ và Bộ Công Thương cũng đã đến thăm và khảo sát thực tế tại Công ty Honda Việt Nam (phường Phúc Thắng, Thành phố Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc) và Dự án khu nhà ở công nhân và công trình dịch vụ công cộng Phoenix Town (xã Bá Hiến, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc).
Tại buổi làm việc với lãnh đạo Công ty Honda Việt Nam, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên ghi nhận nỗ lực, đóng góp của Honda Việt Nam đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng và Việt Nam nói chung. Cũng nhờ có những chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư vượt trội của Việt Nam đối với khu vực FDI và Honda, Tập đoàn Nhật Bản đã đạt được nhiều thành công tại thị trường Việt Nam.
Bộ trưởng đề nghị, Honda Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực trong thời gian tới để nâng cao tỷ lệ nội địa hoá, tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp trong nước tham gia sâu hơn nữa vào chuỗi cung ứng của mình; đồng thời có chiến lược, lộ trình phát triển phù hợp với định hướng của Chính phủ Việt Nam về tăng trưởng bền vững, giảm phát thải khí nhà kính, hướng đến hiện thực hoá cam kết tại COP26. Bên cạnh đó, tăng cường công tác phối hợp với Việt Nam, đặc biệt là Bộ Công Thương trong việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành công nghiệp trong thời gian tới./.