4 tháng năm 2023: Việt Nam xuất siêu 6,35 tỷ USD
Cán cân thương mại của Việt Nam trong tháng 4 tiếp tục xuất siêu khoảng 1,51 tỷ USD, nâng tổng xuất siêu trong 4 tháng đầu năm 2023 là 6,35 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 2,35 tỷ USD).
Xuất khẩu gạo tiếp tục là điểm sáng nổi bật trong xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thủy sản trong tháng 4 khi tăng mạnh cả về lượng và trị giá xuất khẩu
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 210,79 tỷ USD
Theo Báo cáo Tình hình thực hiện Nghị quyết số 01/NQ - CP, tình hình sản xuất công nghiệp, hoạt động thương mại tháng 4 và 4 tháng đầu năm 2023 của Bộ Công Thương, kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn đã tiếp tục ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong tháng 4/2023. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 4 ước đạt 53,57 tỷ USD, giảm 7,7% so với tháng trước và giảm 18,8% so với cùng kỳ năm trước.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 210,79 tỷ USD, giảm 13,6% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 16,6%), trong đó xuất khẩu giảm 11,8% (cùng kỳ tăng 17,1%); nhập khẩu giảm 15,4% (cùng kỳ tăng 16,1%). Cán cân thương mại hàng hóa 4 tháng đầu năm 2023 ước tính xuất siêu 6,35 tỷ USD
Những khó khăn trong sản xuất và sự sụt giảm đơn hàng xuất khẩu trong quý I/2023 tiếp tục ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hóa trong tháng 4/2023. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 4/2023 ước đạt 27,54 tỷ USD, giảm 7,3% so với tháng trước và giảm 17,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 7,12 tỷ USD, giảm 8,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 20,42 tỷ USD, giảm 6,9%.
Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 108,57 tỷ USD, giảm 11,8% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 17,1%). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 28,58 tỷ USD, giảm 11%, chiếm 26,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 79,99 tỷ USD, giảm 12,1%, chiếm 73,7%.
Trong 4 tháng, có 20 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, giảm 2 mặt hàng so với cùng kỳ năm trước (có 22 mặt hàng), chiếm 83,8% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 5 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 57,4%).
Về xuất khẩu các nhóm hàng, kim ngạch xuất khẩu nhóm nông, lâm, thuỷ sản trong 4 tháng đầu năm 2023, ước đạt 9,68 tỷ USD, giảm 4,8% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 8,9% tổng kim ngạch xuất khẩu. Những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cao trong nhóm này gồm có: gạo tăng 54,5%, rau quả tăng 19,4%; sắn tăng 26,3%. Ngược lại, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm trong nhóm này như: thủy sản giảm 29%; cao su giảm 20%; hạt tiêu giảm 10,2%, chè các loại giảm 5,8%...
Tiếp nối những thành tựu trong những tháng đầu năm, xuất khẩu gạo tiếp tục là điểm sáng nổi bật trong xuất khẩu nhóm hàng nông lâm thủy sản trong tháng 4 khi tăng mạnh cả về lượng và trị giá xuất khẩu. Ước tính xuất khẩu gạo tháng 4/2023 tăng 14,4% về lượng và tăng 12,8% về kim ngạch xuất khẩu so với tháng trước; tăng 98% về lượng và tăng 108% về kim ngạch xuất khẩu so với cùng kỳ năm trước.
Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến chế tạo tiếp tục giảm mạnh, ước đạt 91,16 tỷ USD, giảm 14,1% so với cùng kỳ năm trước do chịu ảnh hưởng từ sự suy giảm kinh tế toàn cầu, tổng cầu giảm sút, nhu cầu của các thị trường xuất khẩu lớn giảm mạnh.
Báo cáo cũng nhận định, kim ngạch xuất khẩu hầu hết các mặt hàng trong nhóm đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu lớn nhất, ước đạt 17,4 tỷ USD, chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 17,3% so với cùng kỳ năm trước; Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện ước đạt 16 tỷ USD, giảm 8,9%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng ước đạt 13 tỷ USD, giảm 5,9%; hàng dệt may ước đạt 9,6 tỷ USD, giảm 19,3%; giày dép các loại ước đạt 6,13 tỷ USD, giảm 16,3%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,86 tỷ USD, giảm 31,3%; Sắt thép các loại đạt 2,38 tỷ USD, giảm 27,9%.
Chỉ có một số ít mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng như: giấy và sản phẩm từ giấy tăng 9%; Phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 12,8%.
Kim ngạch xuất khẩu nhóm nhiên liệu khoáng sản tiếp tục giảm mạnh, ước đạt 1,25 tỷ USD, giảm 17,8% so với cùng kỳ năm trước do kim ngạch của hầu hết các mặt hàng đều giảm như: than đá giảm 98,9%; quặng và khoáng sản khác giảm 30,7%; xăng dầu các loại giảm 11,2%; dầu thô giảm 7,5%...
Về thị trường xuất khẩu hàng hóa 4 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu của nước ta tới hầu hết các thị trường, đối tác thương mại lớn đều giảm. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 28,45 tỷ USD, chiếm 26% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 21% so với cùng kỳ; tiếp đến là Trung Quốc đạt 16,4 tỷ USD, giảm 7,9%; thị trường EU đạt 13,66 tỷ USD, giảm 14,1%; thị trường ASEAN đạt 11,1 tỷ USD, giảm 1,3%; Hàn Quốc đạt 7,8 tỷ USD, giảm 6,9%; Nhật Bản đạt 7,3 tỷ USD, giảm 0,9%.
Về nhập khẩu hàng hóa, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng 4/2023 ước đạt 26,03 tỷ USD, giảm 8,1% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 9,13 tỷ USD, giảm 13%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 16,9 tỷ USD, giảm 5,2%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Tư giảm 20,5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước giảm 19,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 21,1%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2023, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 102,22 tỷ USD, giảm 15,4% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 16,1%), trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 36,62 tỷ USD, giảm 11,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 65,6 tỷ USD, giảm 17,4%.
Trong 4 tháng đầu năm 2023 có 19 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 75,8% tổng kim ngạch nhập khẩu (có 02 mặt hàng nhập khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 37,1%).
Về cơ cấu hàng hóa nhập khẩu: chiếm 86% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2023 là nhóm hàng cần nhập khẩu (nguyên phụ liệu phục vụ sản xuất trong nước) với kim ngạch ước đạt 88 tỷ USD, giảm 18% so với cùng kỳ năm 2022 do những khó khăn về đơn hàng xuất khẩu, trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nên nhu cầu nhập khẩu nguyên phụ liệu sản xuất để phục vụ sản xuất giảm. Trong đó, kim ngạch nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt cao nhất, ước đạt 25,4 tỷ USD, giảm 13,9% so với cùng kỳ năm trước. Tương tự, kim ngạch nhập khẩu hầu hết các mặt hàng khác cũng ghi nhận mức giảm như: nguyên phụ liệu thuốc lá giảm 73,3%; cao su các loại giảm 39,4%; quặng và khoáng sản khác giảm 34,4%; bông các loại giảm 30,7%; thép các loại giảm 25,8%; hóa chất giảm 24,5%; xăng dầu các loại giảm 17%; phân bón giảm 38,6%...
Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu nhóm năng lượng tăng (khí đốt hóa lỏng tăng 5,1% so với cùng kỳ; dầu thô tăng 13,8%, sản phẩm khác từ dầu mỏ tăng 5,7%) và nhóm nông thủy sản tăng như: thủy sản tăng 20,8%; lúa mỳ tăng 6,9%; ngô tăng 10,6%, thức ăn gia súc và nguyên liệu tăng 5,8%.
Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng cần hạn chế nhập khẩu giảm 2,8% so với cùng kỳ năm trước, ước đạt 6,6 tỷ USD. Trong đó, tăng cao nhất là kim ngạch nhập khẩu ô tô nguyên chiếc dưới 9 chỗ, tăng 51,7% và phế liệu sắt thép, tăng 27,7%.
Về thị trường nhập khẩu hàng hóa trong 4 tháng đầu năm 2023, do những khó khăn trong sản xuất và xuất khẩu nên kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ hầu hết các thị trường đều giảm so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 33,2 tỷ USD, giảm 13,4% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là Hàn Quốc ước đạt 16,7 tỷ USD, giảm 25,7%; thị trường ASEAN đạt 13,4 tỷ USD, giảm 17,1%; Nhật Bản đạt 6,9 tỷ USD, giảm 12,8%; thị trường EU đạt 4,38tỷ USD, giảm 17%; Hoa Kỳ đạt 4,08 tỷ USD, giảm 11,9%.
Cán cân thương mại của Việt Nam trong tháng 4 tiếp tục xuất siêu khoảng 1,51 tỷ USD, nâng tổng xuất siêu trong 4 tháng đầu năm 2023 là 6,35 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 2,35 tỷ USD). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 8,04 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 14,39 tỷ USD.
Đẩy mạnh phát triển thị trường ngoài nước
Theo báo cáo, nguyên nhân của sự suy giảm trong hoạt động xuất nhập khẩu, do nền kinh tế lớn là đối tác xuất khẩu của Việt Nam như Hoa Kỳ, EU giảm chi tiêu mua sắm các sản phẩm thông thường và xa xỉ khiến khối lượng đơn đặt hàng giảm, trong khi đó các ngành sản xuất công nghiệp trong nước chủ yếu hướng vào xuất khẩu, phụ thuộc lớn vào thị trường toàn cầu do sản lượng sản xuất trong nước vượt xa nhu cầu của thị trường nội địa, đặc biệt là đối với các ngành hàng như dệt may, da - giày, điện tử… chỉ cung ứng cho nhu cầu nội địa 10% sản lượng, 90% sản lượng còn lại là để xuất khẩu.
Bên cạnh việc giảm lượng, so với cùng kỳ giá xuất khẩu của nhiều mặt hàng nông sản (nhân điều, cà phê, hạt tiêu, cao su…) giảm; giá xuất khẩu dầu thô, sản phẩm xăng dầu, các loại quặng, phân bón, sắt thép cũng giảm đã tác động đến tốc độ tăng giá trị sản xuất và xuất khẩu hàng hóa nói chung.
Việc Trung Quốc mở cửa trở lại cũng tạo nhiều áp lực cạnh tranh đối với hàng xuất khẩu cùng chủng loại của Việt Nam. Trong khi đó, các doanh nghiệp của ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn do đơn hàng nước ngoài giảm, thị trường trong nước sức mua không lớn, chi phí đầu vào vẫn ở mức cao, không dễ dàng trong việc tiếp cận tín dụng…
Thời gian tới, một số khu vực kinh tế lớn như Trung Quốc, Mỹ tăng trưởng cao hơn dự báo; một số nền kinh tế đang nổi tại châu Á như Ấn Độ, ASEAN tăng trưởng khả quan; các chính sách kích cầu đầu tư công và hỗ trợ doanh nghiệp của nhà nước phát huy tác dụng trong việc phục hồi các hoạt động sản xuất; chỉ số sản xuất công nghiệp xu hướng tăng dần qua các tháng; nhập khẩu nguyên phụ liệu có dấu hiệu tăng… là những yếu tố dự báo tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu trong thời gian tới sẽ khả quan hơn.
Vì vậy, thời gian tới, Bộ Công Thương sẽ tập trung đẩy mạnh phát triển thị trường ngoài nước. Trong đó, tập trung đổi mới và tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại hướng đến các thị trường mới, thị trường còn tiềm năng như Ấn Độ, châu Phi, Trung Đông và châu Mỹ La tinh, Đông Âu… và các thị trường ít bị ảnh hưởng bởi lạm phát và tăng trưởng khả quan (ASEAN). Quyết liệt đột phá vào các thị trường mới, nơi có tầng lớp trung lưu gia tăng như các thị trường mới nổi E7 (Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Mêxico và Indonesia; thị trường Halal (Trung Đông, Malaysia, Brunay).
Đẩy mạnh khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA). Tạo thuận lợi hoá, tăng cường chuyển đổi số trong công tác cấp Giấy chứng nhận xuất xứ C/O ưu đãi, qua đó hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng các cam kết trong các Hiệp định FTA.
Thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics, qua đó giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam.
Tiếp tục tổ chức các Hội nghị giao ban định kỳ hàng tháng giữa các cơ quan của Bộ, hệ thống Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài với các địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp và các Bộ, ngành liên quan để kịp thời cập nhật cho doanh nghiệp, Hiệp hội về thông tin, nhu cầu, cũng như các quy định mới của thị trường.
Đẩy mạnh phát triển xuất nhập khẩu thông qua hoạt động thương mại điện tử xuyên biên giới.