A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

FTA tạo động lực cho tăng trưởng xuất khẩu thủy sản

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), tính chung 9 tháng, xuất khẩu thủy sản đạt 8,33 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong bối cảnh thương mại quốc tế đầy biết động, kết quả này có được nhờ sự hỗ trợ tích cực từ các cơ quan chức năng, sự linh hoạt của doanh nghiệp và sự tận dụng hiểu quả các Hiệp định thương mại do (FTA).

Tín hiệu tích cực cho ngành thủy sản

Số liệu thống kê cho thấy, tháng 9/2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt gần 991 triệu USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong cơ cấu sản phẩm, tôm tiếp tục dẫn đầu với gần 410 triệu USD trong tháng 9, nâng tổng kim ngạch 9 tháng lên hơn 3,38 tỷ USD, tăng 20,3% so với cùng kỳ. Động lực tăng trưởng chủ yếu đến từ nhu cầu ổn định tại Mỹ, Nhật Bản, EU và sự mở rộng đơn hàng ở các thị trường khu vực. Giá trị xuất khẩu hàng thủy sản tháng 9 năm 2025 ước đạt 8,33 tỷ USD, tăng trưởng 15,5% so với cùng kỳ. Dựa trên kết quả hiện tại, VASEP lạc quan rằng, xuất khẩu thủy sản năm 2025 có thể đạt mốc 10 tỷ USD, thậm chí cao hơn, tương ứng mức tăng trưởng 10 - 12%.

Kết quả trên cho thấy ngành thủy sản đang phục hồi vững chắc sau giai đoạn nhiều biến động, đồng thời khẳng định sự vào cuộc quyết liệt của Chính phủ, các Bộ, ngành cùng nỗ lực thích ứng linh hoạt của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc tập trung phát triển sản phẩm chế biến giá trị gia tăng, đáp ứng tiêu chuẩn cao về chất lượng, an toàn và truy xuất nguồn gốc đã giúp ngành duy trì lợi thế cạnh tranh, đặc biệt ở phân khúc trung và cao cấp.

Bà Lê Hằng – Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, trong bối cảnh thương mại quốc tế nhiều biến động, các hiệp định thương mại tự do (FTA) đã trở thành “cứu cánh” cho doanh nghiệp thủy sản.

Theo bà Hằng, các doanh nghiệp đã tận dụng tối đa ưu đãi từ các FTA thế hệ mới như EVFTA và CPTPP để mở rộng thị trường. Nhờ đó, dù gặp khó khăn về nguyên liệu và rào cản thương mại tại một số thị trường, tuy nhiên xuất khẩu sang ASEAN, Canada, Chile và một số quốc gia Nam Mỹ vẫn tăng trưởng tích cực, đóng góp đáng kể vào kết quả chung của ngành.

Doanh nghiệp chủ động trước những quy định mới của thị trường EU

Đối với thị trường EU, Việt Nam có thuận lợi lớn từ Hiệp định EVFTA với việc EU cam kết mở cửa rất mạnh cho thủy sản Việt Nam bằng việc xóa bỏ khoảng 50% số dòng thuế ngay khi Hiệp định có hiệu lực, trong đó phần lớn các sản phẩm thuế cao từ 6 - 22% được xóa bỏ về 0% như hàu, điệp, mực, bạch tuộc, nghêu, sò, tôm sú đông lạnh…; 50% số dòng thuế còn lại, thuế suất cơ sở từ 5,5-26%, sẽ được cắt giảm về 0% theo lộ trình 3-7 năm. Đặc biệt, thuế nhập khẩu hầu hết tôm nguyên liệu (tươi, đông lạnh, ướp lạnh) nhập khẩu vào EU cũng được giảm từ mức thuế cơ bản 12-20% xuống 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực. Như vậy, EVFTA đã tạo ra lợi thế rất lớn về giá cho thủy sản Việt Nam, đặc biệt trong cạnh tranh xuất khẩu các mặt hàng tương đồng với các đối thủ tại thị trường EU.

Cũng theo VASEP, thị trường Liên minh châu Âu (EU) tiếp tục là một điểm đến quan trọng và tiềm năng cho ngành thủy sản xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, đi kèm với cơ hội là những yêu cầu ngày càng chặt chẽ về chất lượng, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc. Mỗi năm, EU ban hành khoảng 180 quy định mới hoặc điều chỉnh liên quan đến nông sản, thực phẩm và thủy sản. Việc nắm bắt sớm và đúng các quy định này là yếu tố then chốt để duy trì khả năng tiếp cận thị trường, tránh rủi ro pháp lý và gián đoạn thương mại.

Một trong những nội dung quan trọng là việc EU thường xuyên điều chỉnh mức dư lượng thuốc trừ sâu tối đa (MRLs), với khoảng 40–60 MRL thay đổi mỗi năm. Điều này ảnh hưởng đến vùng nuôi, quy trình sản xuất và kiểm soát chất lượng của doanh nghiệp. 

Một quy định mới đang được EU chuẩn bị thông qua sẽ thiết lập mức giới hạn thạch tín vô cơ trong cá và giáp xác, với mức dao động từ 0,10–0,50 mg/kg tùy loại. Dự kiến áp dụng từ quý IV/2025, quy định này yêu cầu doanh nghiệp kiểm soát chặt chẽ nguồn nguyên liệu và quy trình sản xuất. Trong khi đó, các yêu cầu kỹ thuật mới đối với cá ngừ đông lạnh ngâm nước muối, như trang bị thiết bị giám sát nhiệt độ và xác nhận khả năng đông lạnh của tàu, cũng đặt ra thêm áp lực cho nhà khai thác.

Ngoài ra, từ tháng 9/2026, EU sẽ cấm hoàn toàn việc sử dụng chất kháng khuẩn dành cho người hoặc làm chất kích thích tăng trưởng trong sản phẩm động vật, bao gồm thủy sản. Quy định này đã được lên lịch áp dụng trong giấy chứng nhận từ tháng 9/2024, đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng về quy trình và hồ sơ chứng nhận. EU cũng thay đổi cách tiếp cận với sản phẩm tổng hợp, không dựa trên tỷ lệ thành phần động vật mà đánh giá theo mức độ rủi ro với sức khỏe cộng đồng.

Theo các chuyên gia, trước sức ép ngày càng gia tăng, các doanh nghiệp thủy sản cần sớm xây dựng kế hoạch sản xuất phù hợp với yêu cầu phúc lợi, cập nhật các tiêu chuẩn quốc tế và chủ động đổi mới công nghệ nuôi trồng. Việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp kỹ thuật nhân đạo, như gây sốc điện khi thu hoạch cá tra hay loại bỏ biện pháp cắt mắt tôm giống, sẽ ngày càng trở thành tiêu chuẩn bắt buộc.

Song song với đó, doanh nghiệp cần quản lý chặt chẽ chất lượng, tuyệt đối tuân thủ quy định về sử dụng thuốc, hóa chất, đồng thời đẩy mạnh liên kết sản xuất để tối ưu chi phí và nâng cao năng lực cạnh tranh. Việc chia sẻ kinh nghiệm, nhân rộng mô hình tốt và nâng cao nhận thức toàn chuỗi về phúc lợi động vật sẽ giúp doanh nghiệp không chỉ vượt qua rào cản kỹ thuật, mà còn gia tăng uy tín và giá trị sản phẩm.

Đáp ứng các tiêu chuẩn phúc lợi động vật không chỉ là trách nhiệm xã hội, mà còn là yêu cầu tất yếu để giữ vững thị phần và thâm nhập sâu hơn vào các thị trường khó tính như EU, Mỹ hay Nhật Bản. Doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam cần coi đây là một phần chiến lược phát triển bền vững, chuẩn bị sớm để đón đầu cơ hội, thay vì đối phó khi quy định đã trở thành bắt buộc.

Theo đại diện Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương, để tận dụng được các FTA nói chung và EVFTA nói riêng, doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu đang đối diện với một số vấn đề khó khăn. Đó là nguyên liệu đầu vào không ổn định, giá thành cao, chất lượng con giống chưa đảm bảo; thiếu vốn, khó tiếp cận vốn, vướng các quy định của ngân hàng để tiếp cận vốn vay phục vụ sản xuất kinh doanh; thiếu thông tin thị trường, đơn hàng không ổn định, không dễ trong cạnh tranh để có đơn hàng; doanh nghiệp đang rất cần tư vấn hướng dẫn, cập nhật chính sách, quy định của nước ngoài về nhập khẩu hàng thủy sản từ nước ta; đặc biệt là doanh nghiệp chưa xây dựng được thương hiệu. Bộ Công Thương đang xây dựng hệ sinh thái FTA cho xuất khẩu thủy sản.

Bộ Công Thương đang được giao thực hiện xây dựng hệ sinh thái tận dụng FTA. Trong hệ sinh thái FTA này có hai cấu phần bao gồm cơ quan quản lý và cấu phần doanh nghiệp. Khi tham gia hệ sinh thái, người nông dân sẽ được hỗ trợ vốn, kỹ thuật, được giải đáp các vướng mắc và được hỗ trợ đầu ra. Doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu cũng được các ưu đãi đó và được thông tin, tiếp cận thị trường xuất khẩu.

Để tham gia hệ sinh thái FTA cho xuất khẩu thủy sản, hộ dân phải đáp ứng các tiêu chí là có diện tích nuôi trồng thủy sản phù hợp; đồng ý tham gia các chương trình phát triển bền vững, xây dựng thương hiệu; đồng ý kết nối với doanh nghiệp, đảm bảo cung cấp đầy đủ nguyên liệu chất lượng; cam kết nuôi trồng thủy sản theo đúng tiêu chí quy định. Doanh nghiệp tham gia hệ sinh thái FTA xuất khẩu thủy sản, phải có nguồn khách hàng tiềm năng, ưu tiên doanh nghiệp uy tín, tài chính vững mạnh, có hợp đồng xuất khẩu ổn định; doanh nghiệp phải cam kết phát triển bền vững, cam kết thu mua hàng hóa của nông dân; có hệ thống nhà xưởng, may móc chế biến đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu.

Sự phối hợp giữa các chủ thể trong quá trình xây dựng hệ sinh thái đều hướng đến mục đích chung đó là giải quyết được bài toán nội bộ, để gia tăng được năng lực của các sản phẩm, ngành hàng và tận dụng được những cơ hội của thị trường mà Việt Nam đã có các FTA. Hệ sinh thái tận dụng FTA cho ngành hàng thủy sản sẽ là cách tiệp cận mới, căn bản, quan trọng giúp doanh nghiệp xuất khẩu và toàn ngành thủy sản tận dụng tốt hơn ưu đãi từ các FTA để đẩy mạnh xuất khẩu.

 


Tin liên quan

Tin nổi bật

Liên kết website