Phát triển công nghiệp quốc gia và vai trò của các viện nghiên cứu (Bài 1)
Phát triển khoa học công nghệ (KHCN) đặc biệt là KHCN trong ngành cơ khí có ý nghĩa rất quan trọng để đảm bảo sự tự chủ của các quốc gia trên thế giới, và nó đặc biệt quan trong với các quốc gia đang phát triển, muốn thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình, muốn đảm bảo được độc lập trong phát triển kinh tế cũng như độc lập chủ quyền.
Các Viện nghiên cứu, một trong những tổ chức có nhiệm vụ đóng góp chính cho sự nghiệp phát triển khoa học công nghệ ở mọi quốc gia trên thế giới đã và đang hoạt động thế nào? Các viện nghiên cứu ở Việt Nam đã hoạt động ra sao? Các Viện đã có thể hiện được vai trò của mình trong sự nghiệp này chưa? là những vấn đề cần trao đổi.
Kinh nghiệm từ các nước
Nói về các viện tại Liên xô cũ hay Trung quốc, ngoài Viện hàn lâm khoa học trực thuộc Chính phủ, mỗi bộ, ngành lại có những viện trực thuộc bộ. Các Viện hoạt động theo đơn hàng của Chính phủ hoặc của bộ ngành, đây là những đơn vị nghiên cứu làm chủ hầu hết các công nghệ của đất nước từ khai khoáng, luyện kim, thiết kế chế tạo máy móc thiết bị, chế tạo vũ khí.
Các Viện đóng vai trò rất lớn trong giai đoạn đầu phát triển vượt bậc của phe xã hội chủ nghĩa.
Khi phe xã hội chủ nghĩa tại các Liên xô, các nước Đông Âu, Trung Quốc sụp đổ hoặc cải tổ, nhà nước chuyển từ nền kinh tế phát triển theo kế hoạch sang phát triển theo thị trường, vai trò của các viện bị xem nhẹ và trong nhiều trường hợp bị bỏ rơi, các viện không còn đơn hàng từ nhà nước, phải tự kinh doanh, tự hạch toán, nhiều viện rất nổi tiếng đã tan rã, các nhà khoa học đã tìm mọi nghề để sinh tồn, nhiều nhà khoa học bỏ chạy sang các nước phương Tây, một số nhà khoa học kinh doanh bất cứ thứ gì để kiếm sống, các viện tồn tại lay lắt như vậy khoảng một, hai chục năm.
Sau những năm tháng đó, một số Viện đã được các nhà khoa học và có khả năng kinh doanh mua lại, cải tổ thành công ty tư nhân, công ty cổ phần và hoạt động nghiên cứu phục vụ thị trường, định hướng hoạt động của nhà nước cho các viện không còn.
Tại Trung Quốc, Chính phủ nước này đã thấy những bất cập trong việc không còn kiểm soát được hoạt đông của các Viện.Để phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, Trung quốc rất cần các đơn vị như các viện làm chủ những công nghệ mà Nhà nước cần, và một lần nữa vai trò của các viện lại thay đổi. Một số ít viện vẫn giữ trực thuộc các bộ, ngành, một số đã chuyển đổi thành các công ty cổ phần thì nhà nước tiếp tục nắm giữ một số cổ phần đặc biệt để chi phối hoạt động. Các công ty này có chức năng hoạt động rất đa dạng: nghiên cứu, tư vấn, thiết kế, chế thử, làm tổng thầu quản lý các dự án EPCM.
Về quy mô của Viện từ một đến vài ngàn người, về doanh thu lên cả tỷ USD, nhiều dự án họ làm tổng thầu EPCM có giá trị đến hàng tỷ USD.
Các cơ chế chính sách hỗ trợ cho các đơn vị nghiên cứu này rất đa dạng: từ cơ chế ép các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Trung quốc phải chuyển giao công nghệ cho công ty bản địa, đến việc tài trợ các dự án nghiên cứu, miễn giảm thuế, hỗ trợ cơ sở vật chất, thiết bị nghiên cứu, nhưng cơ chế quan trọng nhất là bảo hộ thị trường cho các viện.
Có thể nói việc giải mã, làm chủ công nghệ được thực hiện bởi các công ty này đã đóng góp vai trò quyết định tạo nên sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế Trung quốc trong các thập niên vừa qua. Dưới đây sẽ điểm qua việc cải tổ và hoạt động hiện nay của một số Viện của Trung Quốc.
- Viện thiết kế cơ khí và điện Thượng Hải (SIMEE) là công ty tư vấn, thiết kế cho các dự án lớn về nhà máy và công trình điện lực, hạ tầng thành phố, hệ thống kho vận, nhà kho thông minh, xử lý nước, rác thải... Viện có thể đảm nhận chức năng tư vấn thiết kế, tư vấn xây dựng, đánh giá dự án, quản lý dự án và tổng thầu EPC dự án. Viện đã được giao thực hiện hàng trăm dự án lớn của Trung Quốc.
- Viện thiết kế năng lượng Quảng đông GEDI thuộc Tập đoàn Lưới điện Phương Nam Trung Quốc, được thành lập năm 1958, có 2.412 nhân viên hiện đã chuyển thành công ty tư vấn, thiết kế, quản lý dự án EPCM, đã làm tư vấn, thiết kế, quản lý dự án cho hàng trăm dự án cho các nhà máy điện than, điện khí, điện nguyên tử… được xếp hạng thứ 11 trong tổng số 15 ngàn công ty tư vấn thiết kế của Trung Quốc.
- Viện thiết kế cơ khí Hà Nam trực thuộc Bộ Cơ khí Trung Quốc trước đây, chuyển đổi thành công ty khoa học công nghệ trực thuộc Chính phủ năm 1999. Từ khi trở thành công ty tư vấn thiết kế, viện đã làm chủ nhiều công nghệ về sản xuất máy móc thiết bị công nghiệp như hộp số bánh răng, vật liệu và máy hàn, máy và thiết bị đúc, rèn dập, thiết bị cơ điện tử…
Một thành công đáng ngưỡng mộ là trường hợp của công ty Siasun, được chuyển đổi thành công ty công nghệ từ một đơn vị của Viện nghiên cứu về cơ khí, điện tử tại Liêu Ninh năm 2000, đến nay, Siasun đã trở thành công ty cổ phần với vốn hóa khoảng 4 tỷ USD, nhân sự khoảng 4000 kỹ sư, xếp hạng thứ ba trong ngành công nghiệp robot toàn cầu.
Cần lưu ý rằng, Nhà nước Trung Quốc không những nắm cổ phần chi phối mà còn yêu cầu các công ty lớn sử dụng nhiều robot của Trung Quốc phải tham gia góp vốn và dùng sản phẩm của Siasun. Đây là hình thức tạo dựng thị trường rất đặc biệt của Trung Quốc.
Tại Liên Xô cũ ngoài một số ít các Viện tiếp tục được Nhà nước sử dụng, phần lớn đã chuyển thành công ty tư nhân hay cổ phần, còn lại là tan rã, đây chính là nguyên nhân làm cho nền kinh tế phục vụ dân sinh bị thụt lùi, không đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa trong một vài chục năm qua.
Tại Hàn Quốc, mặc dù là nước tư bản chủ nghĩa với nền kinh tế thị trường, nhưng đa số các viện trừ các đơn vị nghiên cứu của các Tập đoàn kinh tế lớn của các nước này lại là viện nhà nước, được thành lập để phục vụ cho các chương trình phát triển kinh tế của Chính phủ, kinh phí cho đầu tư phần lớn từ ngân sách, kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoảng 50% từ ngân sách nhà nước, 50% còn lại từ các hợp đồng kinh tế với các khách hàng.
Qua làm việc với các viện của Hàn Quốc như Viện Công nghệ mới Hàn Quốc KIAT, Viện KHCN Hàn Quốc KIST, Viện Công nghệ ô tô KATECH, ViệnThiết kế điện KOPEC… kinh phí ngân sách cho nghiên cứu và hoạt động của một viện với quân số khoảng 500 người là 100 đến 300 triệu USD. Hoạt động của các viện như thế này giúp cho Hàn Quốc nằm trong top các nước làm chủ những công nghệ tiên tiến.
Tại Đài Loan, Viện Nghiên cứu Công nghệ Công nghiệp Đài Loan ITRI được thành lập năm 1973 là Viện nghiên cứu không lợi nhuận được cấp ngân sách từ Chính phủ chuyên nghiên cứu để ứng dụng công nghệ cho các ngành công nghiệp Đài Loan, trong một chừng mực nào đó Viện này hoạt động giống như các Viện của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa giai đoạn đầu, tức là nghiên cứu những công nghệ để các công ty Đài loan có thể ứng dụng và phát triển trong một ngành công nghiệp được định hướng bởi Chính phủ. Nó không chỉ giúp hình thành công ty chế tạo ra sản phẩm mới mà còn giúp tạo ra toàn bộ của quá trình sản xuất bao gồm thiết kế, vật liệu, thiết bị công nghệ, kiểm tra, quản lý chất lượng, đóng gói và tiêu thụ sản phẩm. Viện IRTI được đánh giá là có vai trò quan trọng trong việc hình thành nền công nghiệp bán dẫn của Đài Loan.
Ngoài ra, Đài Loan còn rất nhiều viện nghiên cứu ứng dụng với kinh phí hoạt động năm mươi từ nhà nước, năm mươi từ hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Bốn mô hình các viện nghiên cứu đang vận hành
Trên đây, ta đã điểm lại mô hình hoạt động của các viện tại Liên Xô cũ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, các viện tại các nước này đã và đang được cải tổ và hoạt động theo bốn mô hìnhchính:
Mô hình thứ nhất là Viện nghiên cứu trực thuộc nhà nước với phần lớn kinh phí hoạt động từ ngân sách; Mô hình thứ hai là viện nghiên cứu nhà nước với khoảng 50% kinh phí hoạt động từ ngân sách, 50% còn lại đến từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh; Mô hình thứ balà chuyển đổi thành các công ty tư vấn, thiết kế nhưng nhà nước vẫn nắm quyền chi phối với phần lớn kinh phí hoạt động từ các hợp đồng kinh tế và Mô hình cuối cùng là chuyển đổi thành công ty tư nhân 100%.
Mô hình thứ nhất, đang áp dụng tại một số nước phát triển như Hàn Quốc hoặc một số nước châu Âu, mô hình này có ưu điểm là hoạt động nghiên cứu phục vụ 100% cho chương trình phát triển kinh tế của chính phủ nhưng nhược điểm là tính trì trệ cao. Mô hình này phù hợp cho các chương trình nghiên cứu công nghệ nền và dài hạn.
Mô hình thứ hai, Nhà nước vẫn quản lý được hoạt động của các viện, tuy nhiên vẫn có sự trì trệ nhất định trong hoạt động của các viện. Nếu có định hướng tốt của Chính phủ, bộ, ngành đặc biệt về tạo dựng và bảo hộ thị trường thì mô hình này phát huy hiệu quả rất tốt như trường hợp các viện tại Đài Loan và Hàn Quốc. Ngoài Hàn Quốc, Đài Loan như kể trên, Mô hình này đang được áp dụng phổ biến tại Việt Nam và một số viện tại Trung Quốc.
Ở Mô hình thứ ba, các viện hoạt động đặc biệt hiệu quả và tạo ra bước phát triển thần kỳ của Trung Quốc, nguyên nhân là do nhà nước Trung Quốc vẫn năm quyền chi phối các viện, có định hướng sát sao và tạo dựng và bảo hộ mạnh mẽ thị trường cho các viện. Nhược điểm của mô hình này là nếu Nhà nước không tạo dựng, bảo hộ thì trường thì các viện sẽ không hoạt động theo định hướng cũng như không phục vụ cho các chương trình phát triển kinh tế, xã hội Chính phủ của Nhà nước.
Mô hình cuối cùng có ưu điểm là tạo nên sự năng động của các viện, nhưng nhược điểm là các viện có thể bỏ hoạt động KHCN để kinh doanh trong các lĩnh vực khác miễn là kiếm được nhiều lợi nhuận, hậu quả các viện tan rã và biến mất một cách nhanh chóng, đây thực sự là mối nguy cho Nhà nước. Ví dụ, sau cổ phần hóa Viện Thiết kế công trình cơ khí, Bộ Công Thương, chủ mới của Viện đã chuyển sang kinh doanh bất động sản mà xem nhẹ hoặc bỏ qua hoạt động tư vấn thiết kế, như vậy đóng góp của Viện cho phát triển KHCN nói riêng, phát triển kinh tế nói chung bị hạn chế rất nhiều.
Vậy, đâu là mô hình thích hợp nhất để áp dụng vào thực tế hoạt động của các Viện tại Việt Nam? Việt Nam nên sử dụng kinh nghiệm về mô hình hoạt động của các viện đề cập ở phần trên như thế nào? Kỳ sau chúng ta sẽ phân tích mô hình và hoạt động của các viện nghiên cứu ứng dụng tại Việt Nam và đề xuất những mô hình vận hành phù hợp.