A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Nhận diện và phản bác các luận điệu phủ định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là một đặc trưng cơ bản bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đây là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động cố tình xuyên tạc, phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Bài viết tập trung phân tích cơ sở khoa học của việc xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; nhận diện và phản bác các luận điệu sai trái, từ đó khẳng định phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là yêu cầu khách quan và là lựa chọn đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.

Đóng gói mặt hàng tôm xuất khẩu tại Công ty Cổ phần Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, tỉnh Hậu Giang _Ảnh: TTXVN

1. Mở đầu

Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, Việt Nam đã chuyển đổi thành công sang nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN năng động, hội nhập quốc tế sâu rộng. Trong mô hình kinh tế tổng quát đó, việc xác định và kiên trì thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược, bảo đảm sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước. Đảng ta xác định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển” (1).

Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước (KTNN) là một trong những vấn đề lý luận và thực tiễn cốt lõi, thể hiện rõ nét sự khác biệt về chất giữa KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam với KTTT tư bản chủ nghĩa. Quan điểm này đã được Đảng ta khẳng định nhất quán, xuyên suốt qua các kỳ Đại hội. Bên cạnh đó, Điều 51 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”(2).

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,… là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường” (3).

Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề mà các thế lực thù địch, phản động và những phần tử cơ hội, bất mãn chính trị thường xuyên tập trung chống phá, xuyên tạc. Lợi dụng những khó khăn, yếu kém của một bộ phận doanh nghiệp nhà nước (DNNN), hoặc xuất phát từ những định kiến, cách nhìn phiến diện, họ đã tung ra nhiều luận điệu sai trái nhằm phủ nhận hoặc hạ thấp vai trò chủ đạo của KTNN. Họ rêu rao rằng, KTNN là “gánh nặng”, “kém hiệu quả”, “lấn át khu vực tư nhân”, “cản trở cạnh tranh”, “không phù hợp với kinh tế thị trường”, rằng “vai trò chủ đạo” chỉ là “khẩu hiệu ý thức hệ suông”... Mục tiêu của những luận điệu này không gì khác hơn là phủ nhận và tiến tới xóa bỏ vai trò chủ đạo của KTNN, tiến tới tư nhân hóa toàn bộ nền kinh tế, làm suy yếu công cụ vật chất quan trọng của Nhà nước pháp quyền XHCN, và đặc biệt nguy hiểm là nhằm khiến nền kinh tế cũng như đất nước đi chệch hướng XHCN.

Trong bối cảnh đó, việc nhận diện rõ các luận điệu sai trái, thù địch, đồng thời cung cấp những luận cứ khoa học, thuyết phục để khẳng định và bảo vệ vai trò chủ đạo của KTNN là nhiệm vụ chính trị - tư tưởng hết sức quan trọng và cấp bách. Đây là cuộc đấu tranh không khoan nhượng trên mặt trận lý luận, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ đường lối đổi mới và sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam.

2. Nội dung

2.1. Cơ sở khoa học về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước

Cần khẳng định rằng: việc Đảng ta xác định KTNN giữ vai trò chủ đạo không phải là ý muốn chủ quan, mà xuất phát từ những cơ sở lý luận khoa học và yêu cầu khách quan của thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam.

Thứ nhất, cơ sở lý luận từ chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh

Chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ và vai trò kinh tế của nhà nước vô sản. Học thuyết Mác-Lênin chỉ rõ, thời kỳ quá độ lên CNXH là một giai đoạn lịch sử đặc biệt, tồn tại đan xen nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Trong đó, việc thiết lập và củng cố chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu (mà KTNN là hình thức biểu hiện tập trung trong giai đoạn đầu) là điều kiện tiên quyết để định hướng nền kinh tế theo mục tiêu XHCN, ngăn chặn sự thống trị của quan hệ sản xuất TBCN. Nhà nước chuyên chính vô sản (trong điều kiện Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo) phải sử dụng KTNN như một công cụ vật chất hữu hiệu để tổ chức, quản lý, điều tiết nền kinh tế, cải tạo các thành phần kinh tế khác theo định hướng XHCN, bảo đảm lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. KTNN là “trụ cột”, là “cơ sở vật chất” để nhà nước thực hiện các chức năng kinh tế - xã hội của mình.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng kinh tế đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, vững mạnh. Người chỉ rõ vai trò của Nhà nước trong việc lãnh đạo, quản lý kinh tế, chăm lo đời sống nhân dân. Người cũng đề cập đến sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ, trong đó kinh tế quốc doanh có vai trò “lãnh đạo”, “làm đầu tàu”, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác cùng phát triển theo hướng có lợi cho quốc kế dân sinh. Tư tưởng về phát huy nội lực, cần kiệm xây dựng đất nước, lấy dân làm gốc của Người là kim chỉ nam cho việc sử dụng hiệu quả nguồn lực nhà nước phục vụ sự nghiệp cách mạng.

Thứ hai, do yêu cầu khách quan từ thực tiễn xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Xuất phát từ thực tiễn khách quan trong quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, KTNN đã và đang thể hiện rõ một số vai trò quan trọng sau:

(1) Bảo đảm tính định hướng XHCN. Đây là yêu cầu tiên quyết, đồng thời là đặc trưng bản chất, tạo nên sự khác biệt căn bản giữa mô hình KTTT định hướng XHCN của Việt Nam với các mô hình KTTT tư bản chủ nghĩa. Trong nền KTTT, các quy luật cạnh tranh, cung cầu, giá trị có xu hướng dẫn dắt nền kinh tế vận động theo mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, do đó có thể làm gia tăng phân hóa giàu nghèo, bất bình đẳng xã hội và tổn hại môi trường tự nhiên. Để giữ vững định hướng XHCN, Nhà nước phải có trong tay lực lượng vật chất đủ mạnh - mà KTNN chính là công cụ trọng yếu để điều tiết, dẫn dắt thị trường vận động đạt được mục tiêu. Trong đó, KTNN đóng vai trò then chốt trong thực hiện các mục tiêu ưu tiên về cơ cấu kinh tế, phát triển vùng lãnh thổ, an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh - những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế khác có thể không quan tâm hoặc không đủ khả năng thực hiện.

(2) Góp phần ổn định kinh tế vĩ mô: KTNN, đặc biệt là các DNNN lớn trong các lĩnh vực then chốt (năng lượng, khai khoáng, viễn thông, xăng dầu,...), là công cụ hữu hiệu để Nhà nước thực hiện các chính sách bình ổn giá, kiềm chế lạm phát, điều tiết cung cầu, ứng phó với các cú sốc kinh tế từ bên ngoài hoặc thiên tai, dịch bệnh. Thực tiễn các cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và toàn cầu hay đại dịch Covid-19 vừa qua đã chứng minh rõ vai trò chủ đạo của KTNN trong việc duy trì ổn định kinh tế - xã hội, đồng thời tạo nền tảng vững chắc để phục hồi và phát triển trong giai đoạn hậu khủng hoảng.

(3) Vai trò dẫn dắt, lan tỏa, tạo động lực phát triển các ngành, lĩnh vực then chốt, công nghệ mới, đồng thời khắc phục các khuyết tật của thị trường. KTNN đóng vai trò tiên phong trong việc đầu tư vào các ngành, lĩnh vực có tính nền tảng, đòi hỏi nguồn vốn lớn, công nghệ cao, rủi ro lớn, thời gian thu hồi vốn dài mà khu vực tư nhân chưa đủ năng lực hoặc chưa sẵn sàng tham gia. Đây thường là các lĩnh vực có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển kinh tế – xã hội, như hạ tầng quy mô lớn, công nghiệp nặng, công nghệ nguồn, năng lượng tái tạo... và một số ngành then chốt khác. Qua đó, KTNN tạo tiền đề, mở đường, thúc đẩy sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế và quá trình CNH, HĐH đất nước.

Kinh tế nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước phát triển (như ưu đãi về vốn, hỗ trợ về kết cấu hạ tầng cơ sở, chuyển giao ứng dụng khoa học công nghệ,…); giảm thiểu, khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường; bảo vệ, hỗ trợ nhóm yếu thế, dễ gặp rủi ro,... Bên cạnh đó, thị trường không phải lúc nào cũng hiệu quả. Trong nhiều trường hợp, thị trường có thể thất bại trong việc cung cấp hàng hóa công cộng, giải quyết các vấn đề ngoại ứng tiêu cực như ô nhiễm môi trường, tình trạng thông tin bất cân xứng... Trong bối cảnh đó, KTNN, thông qua các DNNN công ích và các chính sách đầu tư, điều tiết của Nhà nước, đóng vai trò quan trọng trong việc khắc phục những thất bại này, bảo đảm lợi ích công cộng và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

(4) Bảo đảm quốc phòng, an ninh và thực hiện nhiệm vụ chính trị - xã hội. Một số DNNN trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh hoặc các nhiệm vụ chính trị - xã hội quan trọng (cung cấp dịch vụ thiết yếu cho vùng sâu, vùng xa, hải đảo; thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo...). Đây là những nhiệm vụ đặc thù mà chỉ KTNN mới có thể đảm đương hiệu quả. Kinh tế nhà nước là trụ cột bảo đảm nguồn lực vật chất, kỹ thuật cho quốc phòng và an ninh, bao gồm việc sản xuất, cung cấp vũ khí, trang thiết bị, kết cấu hạ tầng quân sự và các nhu yếu phẩm cần thiết cho lực lượng vũ trang.

Như vậy, vai trò chủ đạo của KTNN là một tất yếu khách quan, được xác định trên cơ sở lý luận của Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của quá trình xây dựng, phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.

2.2. Nhận diện và đập tan các luận điệu sai trái phủ định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước

Các luận điệu phủ định vai trò chủ đạo của KTNN rất đa dạng về hình thức và nội dung, nhưng tựu trung lại, thường tập trung vào các nhóm chính sau:

Thứ nhất, luận điệu về “hiệu quả thấp và gánh nặng của nền kinh tế”

Luận điệu này cho rằng KTNN, đặc biệt là các DNNN hoạt động kém hiệu quả, sản xuất kinh doanh thua lỗ, là “gánh nặng” của nền kinh tế. Đây là luận điệu được nhắc đến nhiều nhất, dựa trên việc khoét sâu, thổi phồng những hạn chế, yếu kém và các vụ việc tiêu cực xảy ra ở một số DNNN để quy chụp cho toàn bộ KTNN.

Trước hết, cần khẳng định KTNN không đồng nhất với DNNN. KTNN là thành phần kinh tế (bao gồm các yếu tố thuộc sở hữu nhà nước và các yếu tố thuộc sở hữu toàn dân mà nhà nước được giao quyền đại diện chủ sở hữu) do nhà nước tổ chức, quản lý, điều hành. Ngoài doanh nghiệp nhà nước, KTNN còn có các yếu tố khác thuộc sở hữu nhà nước như tài nguyên quốc gia, ngân hàng nhà nước, ngân sách, quỹ dự trữ quốc gia,...

Vì vậy, không thể lấy dẫn chứng về hạn chế của một số doanh nghiệp nhà nước để quy chụp thành yếu kém của cả thành phần KTNN. Trên thực tế, có một bộ phận DNNN hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ, còn xảy ra tình trạng tham nhũng, lãng phí, song Đảng và Nhà nước ta đã nhìn thẳng vào sự thật này và quyết liệt thực hiện tái cơ cấu, đổi mới quản trị, xử lý nghiêm các vi phạm. Nghị quyết số 12-NQ/TW khóa XII về cơ cấu lại, đổi mới DNNN và các nghị quyết, chỉ thị khác đã đề ra hệ thống giải pháp đồng bộ, từ hoàn thiện thể chế, tách chức năng quản lý nhà nước và chủ sở hữu, áp dụng quản trị hiện đại, công khai minh bạch, đến xử lý các dự án thua lỗ... Quá trình này đang mang lại những kết quả tích cực, hiệu quả hoạt động của nhiều DNNN được cải thiện rõ rệt. Do đó, không thể lấy những tồn tại đang được khắc phục để phủ nhận vai trò của cả một khu vực kinh tế chiến lược.

Bên cạnh đó, khi đánh giá hiệu quả của KTNN, trong đó có DNNN, cần tiếp cận một cách toàn diện, không chỉ dựa vào lợi nhuận kinh doanh thuần túy. Như đã phân tích, nhiều DNNN thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội, công ích, giữ vai trò bình ổn thị trường, cũng như đầu tư vào các lĩnh vực rủi ro cao, lợi nhuận thấp hoặc không có lợi nhuận. Do vậy, nếu chỉ xét trên phương diện lợi nhuận, sẽ không thể phản ánh đầy đủ và chính xác những đóng góp to lớn của KTNN đối với sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.

Cần có cơ chế đánh giá phù hợp với đặc thù nhiệm vụ của từng loại hình DNNN. Trên thực tế, nhiều DNNN, đặc biệt là các tập đoàn, tổng công ty lớn, đang hoạt động hiệu quả, đóng góp chủ yếu vào ngân sách nhà nước, đi đầu trong đổi mới công nghệ, hội nhập quốc tế và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Thí dụ, Viettel không chỉ là tập đoàn viễn thông hàng đầu Việt Nam mà còn vươn ra mạnh mẽ trên thị trường quốc tế, đóng góp lớn vào ngân sách và nhiệm vụ quốc phòng. Các ngân hàng thương mại nhà nước (Vietcombank, Vietinbank, BIDV, Agribank) giữ vai trò trụ cột của hệ thống ngân hàng, bảo đảm an toàn hệ thống và cung ứng vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp, nông thôn. Các tập đoàn như PVN, EVN bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Tổng thu ngân sách nhà nước từ khu vực DNNN vẫn chiếm tỷ trọng đáng kể và ổn định qua các năm, góp phần quan trọng vào nguồn lực tài chính quốc gia cũng như phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ hai, luận điệu về lấn át, chèn ép kinh tế tư nhân, bóp méo quy luật cạnh tranh của Kinh tế thị trường

Luận điệu này cho rằng sự tồn tại của KTNN với những ưu đãi ngầm hoặc công khai về vốn, đất đai, chính sách, đã tạo ra môi trường cạnh tranh không bình đẳng, làm thui chột động lực phát triển của kinh tế tư nhân (KTTN). Trước những lập luận sai lệch trên, việc phản bác được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn, tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:

(1) Chủ trương nhất quán của Đảng là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng, bình đẳng trước pháp luật, cùng hợp tác, cạnh tranh lành mạnh và phát triển. Nghị quyết Đại hội XIII khẳng định KTTN là “một động lực quan trọng”. Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân khẳng định: “kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhất”. Nhà nước không ngừng nỗ lực hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế phát triển, trong đó có KTTN. Các chỉ số về môi trường kinh doanh của Việt Nam liên tục được cải thiện trong những năm qua là minh chứng rõ nét cho những nỗ lực và kết quả đạt được trong quá trình này.

(2) Sự phát triển nhanh chóng và ngày càng lớn mạnh của KTTN ở Việt Nam trong gần 40 năm đổi mới (từ chỗ không được thừa nhận đến chỗ được coi là một động lực quan trọng nhất, đóng góp ngày càng lớn vào GDP, tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu...) cho thấy trên thực tế, KTNN không hề “lấn át” hay “triệt tiêu” KTTN. Ngược lại, nhiều lĩnh vực KTNN giữ vai trò mở đường, phát triển hạ tầng, cung cấp dịch vụ đầu vào (điện, viễn thông, tín dụng...), qua đó tạo điều kiện cho KTTN phát triển mạnh mẽ.

(3) Những vấn đề về cạnh tranh không bình đẳng (nếu có) cần được nhìn nhận khách quan, đồng thời phân tích rõ nguyên nhân là do thể chế, chính sách chung chưa hoàn thiện hay xuất phát từ chính vai trò và thực tiễn hoạt động của KTNN. Để giải quyết vấn đề này một cách căn bản và bền vững, cần tiếp tục hoàn thiện thể chế KTTT, bảo đảm minh bạch, công bằng, chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh từ bất kỳ thành phần kinh tế nào, chứ không phải là xóa bỏ vai trò chủ đạo của KTNN. Việc tái cơ cấu DNNN, yêu cầu DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường chính là nhằm hạn chế các bất cập và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng hơn.

Thứ ba, luận điệu đòi “tư nhân hóa triệt để”, cho rằng chỉ có thị trường và tư nhân mới hiệu quả:

Đây thực chất là quan điểm cực đoan của chủ nghĩa tự do mới, tuyệt đối hóa vai trò của thị trường và sở hữu tư nhân, phủ nhận vai trò kinh tế của nhà nước nói chung và thành phần KTNN nói riêng. Quan điểm trên là hoàn toàn sai lệch vì những lý do sau:

(1) Lý thuyết và thực tiễn toàn cầu đã chứng minh KTTT “thuần túy”, hoàn toàn không có sự can thiệp của nhà nước là không tồn tại. Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2009, đại dịch Covid-19 và các vấn đề như biến đổi khí hậu, bất bình đẳng gia tăng... càng cho thấy vai trò không thể thiếu của nhà nước trong việc điều tiết, ổn định và định hướng phát triển. Ngay cả ở các nước TBCN phát triển, nhà nước vẫn can thiệp vào nền kinh tế dưới nhiều hình thức, nhằm bảo đảm sự ổn định và thúc đẩy phát triển bền vững của nền kinh tế.

(2) Việc tư nhân hóa ồ ạt, triệt để ở nhiều quốc gia (theo mô hình “liệu pháp sốc” ở Đông Âu, Nga hay các chương trình điều chỉnh cơ cấu ở các nước đang phát triển) đã gây ra những hậu quả kinh tế - xã hội tiêu cực như: thất nghiệp gia tăng, phân hóa giàu nghèo sâu sắc, bất ổn xã hội, tài sản quốc gia rơi vào tay tư bản nước ngoài hoặc một nhóm lợi ích,... Vì vậy, Việt Nam cần lựa chọn con đường phát triển phù hợp, tránh những hệ lụy đã xảy ra ở các nước khác.

(3) Như đã chứng minh, việc khẳng định vai trò chủ đạo của KTNN là tất yếu khách quan để bảo đảm định hướng XHCN, ổn định vĩ mô, an ninh quốc gia và khắc phục thất bại thị trường trong điều kiện Việt Nam. Việc xóa bỏ vai trò này sẽ dẫn đến những hệ lụy khôn lường cho sự phát triển bền vững và con đường đi lên CNXH của đất nước. Chủ trương của Đảng là cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả hoạt động của KTNN, chứ không phải xóa bỏ thành phần kinh tế này.

Thứ tư, luận điệu cho rằng vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là “mơ hồ”, “không định lượng được”, chỉ là “khẩu hiệu ý thức hệ”

Luận điệu này cố tình cho rằng khái niệm “vai trò chủ đạo” là mơ hồ, không rõ ràng, không có tiêu chí cụ thể, nên chỉ mang tính hình thức và ý thức hệ chứ không có giá trị thực tiễn trong quản lý, điều hành kinh tế. Nhận định này không phù hợp với cơ sở lý luận và thực tiễn, dựa trên các phương diện sau:

(1) Nội hàm “vai trò chủ đạo” của KTNN đã được Đảng ta xác định ngày càng rõ hơn qua các kỳ Đại hội. Đó là vai trò dẫn dắt, định hướng, điều tiết nền kinh tế; nắm giữ những ngành, lĩnh vực then chốt, huyết mạch; là lực lượng vật chất để Nhà nước ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn; đi đầu ứng dụng khoa học, công nghệ; thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội.

(2) Vai trò chủ đạo của KTNN không phải là khẩu hiệu suông mà được thể hiện cụ thể, rõ nét trong thực tiễn. Thí dụ, trong công tác bình ổn giá xăng dầu, Nhà nước sử dụng các DNNN đầu mối để can thiệp thị trường. Trong bảo đảm cung ứng điện cho sản xuất và sinh hoạt, EVN giữ vai trò nòng cốt. Đối với việc phổ cập dịch vụ viễn thông đến vùng sâu, vùng xa, Viettel, VNPT trực tiếp triển khai nhiệm vụ. Về nhu cầu huy động nguồn vốn lớn cho các dự án trọng điểm quốc gia, các ngân hàng thương mại nhà nước đóng vai trò chủ lực. Đặc biệt, trong giai đoạn phòng chống dịch bệnh, các DNNN trong lĩnh vực y tế, dược phẩm, vận tải, cung ứng... đã phát huy vai trò xung kích góp phần quan trọng bảo đảm an sinh xã hội và ổn định kinh tế. Những minh chứng trên là sự khẳng định thuyết phục về vai trò chủ đạo của KTNN trong nền kinh tế quốc dân.

(3) Việc chưa có những tiêu chí định lượng chi tiết, cụ thể cho “vai trò chủ đạo” là một vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện về mặt lý luận và thực tiễn, song không thể vì thế mà phủ nhận sự tồn tại và tính đúng đắn của nó. Hiện nay, khoa học quản lý kinh tế đang phát triển các phương pháp đánh giá hiệu quả tổng hợp (bao gồm cả mục tiêu kinh tế và phi kinh tế) để đo lường đóng góp của khu vực công.

3. Kết luận

Như vậy, trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, việc xác lập vai trò chủ đạo của KTNN là hoàn toàn đúng đắn và cần thiết. KTNN là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng, điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Mọi luận điệu cố tình xuyên tạc, phủ nhận vai trò này đều là vô căn cứ, phản khoa học, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc và mục tiêu xây dựng CNXH của Đảng và nhân dân ta. Trong thời gian tới, nhiệm vụ đặt ra là phải không ngừng nâng cao nhận thức lý luận, tổng kết thực tiễn, làm rõ hơn nữa nội hàm và cơ chế phát huy vai trò chủ đạo của KTNN trong bối cảnh mới; đồng thời, kiên quyết, chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Quan trọng hơn, cần đổi mới mạnh mẽ và nâng cao hiệu quả hoạt động của KTNN, để khu vực này thực sự là lực lượng vật chất hùng hậu, là công cụ sắc bén của Nhà nước pháp quyền XHCN, xứng đáng với vai trò chủ đạo, dẫn dắt nền kinh tế thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, đưa đất nước ta trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và vững bước trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.

_________________

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.73-74.

(2) Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.25.

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.129.


Tác giả: TS HOÀNG THỊ BÍCH LOAN - Viện Kinh tế chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nguồn:Theo Tạp chí điện tử Lý luận chính trị Copy link

Tin liên quan

Tin nổi bật

Liên kết website