Việt Nam thu về hàng trăm triệu USD từ tín chỉ carbon
Năm 2022 có ý nghĩa đặc biệt khi ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu bước sang giai đoạn mới. Việt Nam ước tính có thể bán ra 57 triệu tín chỉ carbon cho các tổ chức quốc tế và nếu tính theo giá 5 USD/tín chỉ, mỗi năm, có thể thu về hàng trăm triệu USD.
Nhiều năm nay, Việt Nam sản xuất được tín chỉ carbon và đã bán nhưng những giao dịch này chưa được chú ý nhiều. Trong khi đó, từ năm 2021, Việt Nam bắt buộc phải thực hiện giảm phát thải theo cam kết tại Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu. Hơn nữa, phát triển thị trường tín chỉ carbon trong nước là một trong những công cụ kinh tế đã được đưa vào Luật Bảo vệ môi trường (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua.
Năm 2022 có ý nghĩa đặc biệt khi ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu bước sang giai đoạn mới với việc các bên bắt đầu thực hiện Thỏa thuận Paris. Trong đó, bao gồm đóng góp về giảm phát thải nhà kính được cam kết trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC). Việt Nam đã hoàn thành NDC cập nhật và đã gửi Ban Thư ký Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu.
Bằng sự quyết tâm, trách nhiệm và bằng nguồn lực trong nước, Việt Nam sẽ giảm 9% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường, tương đương 83,9 triệu tấn CO2. Mức đóng góp giảm nhẹ sẽ tăng lên 27%, tương đương 250,8 triệu tấn CO2 khi nhận được hỗ trợ quốc tế.
Nhìn ra thế giới, hiện có 46 quốc gia và 35 vùng lãnh thổ áp dụng hoặc lên kế hoạch áp dụng công cụ định giá carbon, với tổng lượng khí nhà kính được kiểm soát 12 tỷ tấn CO2 tương đương, chiếm 22,3% tổng lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu. Đây là hướng đi tiềm năng bởi chỉ tính riêng năm 2019, nguồn thu từ định giá carbon toàn cầu lên đến 45 tỷ USD.
Còn tại Việt Nam, ước tính có thể bán ra 57 triệu tín chỉ carbon cho các tổ chức quốc tế và nếu tính theo giá 5 USD/tín chỉ, mỗi năm, có thể thu về hàng trăm triệu USD. Đó là những con số rất ấn tượng hứa hẹn là nguồn tài nguyên mới. Và quan trọng hơn phía sau những trị số đó nếu chúng ta biết khai thác hiệu quả sẽ có nguồn kinh phí lớn để nâng cao thu nhập cho người trồng rừng, đồng thời, góp phần không nhỏ bảo vệ và phát triển rừng tại Việt Nam.
Ước một con số không quá khó, điều quan trọng là giải pháp để hiện thực hóa những tính toán này. Để tận dụng tiềm năng từ việc mua bán tín chỉ CO2, chúng ta cần hoàn thiện nhiều quy định chi tiết để hình thành thị trường carbon trong và ngoài nước. Bởi, tham gia thị trường carbon là cơ hội để tạo nguồn thu tài chính, tiếp nhận công nghệ hiện đại ít carbon và chung tay với thế giới trong mục tiêu giảm khí gây hiệu ứng nhà kính. Muốn làm được điều này, việc xây dựng, vận hành thị trường carbon còn là một quá trình dài, đòi hỏi đầu tư nhiều về kỹ thuật, nhân lực và tài chính.
Do vậy, để hình thành và phát triển thị trường carbon ở Việt Nam, cần xây dựng, ban hành hệ thống kiểm kê khí nhà kính, hệ thống giám sát phát thải khí nhà kính và hệ thống MRV (đo đạc, báo cáo, thẩm định) cấp quốc gia/ngành/tiểu ngành/cơ sở sản xuất một cách minh bạch, chính xác theo tiêu chuẩn quốc tế; xác định lộ trình giảm phát thải khí nhà kính cho từng ngành/tiểu ngành…
Một khu vực được coi là có tính sẵn sàng thị trường là khi hệ thống điều tiết và thị trường của nó đảm bảo tính toàn vẹn và hiệu quả của môi trường. Toàn vẹn môi trường trong trường hợp này có thể hiểu là đạt được mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính. Hiệu quả có nghĩa là tìm giải pháp chi phí tối thiểu để giảm phát thải. Để đáp ứng yêu cầu sẵn sàng của thị trường, cần có sự sẵn sàng về quy định và sẵn sàng kinh doanh. Việt Nam có tiềm năng phát triển thị trường carbon nội địa, cũng như cơ hội để liên kết với các thị trường khác trong khu vực và thế giới. Việt Nam cũng cần nâng cao tính sẵn sàng, đồng thời, xây dựng hệ thống MRV để đảm bảo xây dựng và vận hành thị trường carbon thành công.
Giới chuyên gia môi trường phân tích, 2 lĩnh vực có thể đưa ngay vào khai thác nguồn thu cho thị trường mua bán tín chỉ carbon là sản xuất thép và xử lý chất thải rắn. Với ngành thép, hiện cả nước có trên 300 DN nhỏ và vừa sản xuất gang thép. Ngành này đang duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức cao, ước khoảng 18%/năm cho nguyên liệu sản xuất và 20% cho tiêu dùng.
Tuy nhiên, việc ưu tiên đầu tư phát triển mạnh ngành này trong khoảng thời gian dài nhưng thiếu kiểm soát chặt chẽ về công nghệ sản xuất đã khiến lượng phát thải ngày càng lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường. Khảo sát của Vụ Tiết kiệm năng lượng, Bộ Công Thương cho thấy, trung bình để sản xuất 10 triệu tấn thép, các nhà máy tại Việt Nam phát thải ra môi trường khoảng 21 triệu tấn khí CO2. Theo ước tính, đến năm 2025, phát thải toàn ngành thép ước khoảng 122,5 triệu tấn CO2 và đến năm 2030 tăng lên khoảng 133 triệu tấn CO2, chiếm 17% tổng khí phát thải toàn quốc.
Nguyên nhân của tình trạng này là do phần lớn nhà máy sản xuất thép đang phụ thuộc nguồn nguyên liệu hóa thạch hoặc điện. Còn với lĩnh vực xử lý chất thải rắn sinh hoạt, theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trung bình mỗi năm lượng chất thải rắn phát sinh trên toàn quốc khoảng 12 triệu tấn. Đáng quan ngại, 90% tổng lượng chất thải rắn phải xử lý bằng công nghệ chôn lấp. Trong khi đó, kết quả kiểm kê khí nhà kính đối với các hoạt động xử lý chất thải rắn do Bộ Xây dựng thực hiện cho thấy, lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính phát sinh từ bãi chôn lấp rác tăng từ 6,5 triệu tấn CO2 (năm 2014) lên 8,1 triệu tấn (năm 2017).