A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Ngành công nghiệp giấy của Việt Nam nỗ lực mở rộng sản xuất

Trước thực tế tăng trưởng thương mại điện tử, chuỗi bán lẻ; xu hướng sử dụng bao bì thông minh truy xuất nguồn gốc sản phẩm và thông tin bằng mã QR, tính marketing hình ảnh và màu sắc trên bao bì...; xu hướng sử dụng sản phẩm tuần hoàn, thân thiện môi trường... dẫn đến nhu cầu về giấy bao bì tăng trưởng mạnh.

Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, kỹ thuật số, smartphone... và thương mại điện tử cũng như sự tăng tốc của nó trên toàn cầu đã cản trở sự tăng trưởng của giấy in và viết, đặc biệt là tạp chí và báo giấy đang có nguy cơ sụp đổ. Năm 2020, dịch Covid-19 đã lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, nhiều quốc gia phải đóng cửa nền kinh tế, ngành giấy là một trong những ngành chịu ảnh hưởng lớn bởi đại dịch, do đó, tiêu thụ giấy các loại của thế giới đã giảm đáng kể, theo dữ liệu từ trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC), nhập khẩu giấy các loại toàn cầu năm 2020 chỉ đạt 162,35 tỷ USD, giảm 7,46% so với năm 2019.

Ảnh minh họa

Sự sụt giảm trong xuất khẩu mặt hàng giấy các loại trong năm 2019 và 2020 đã kéo tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bình quân giai đoạn 2016 - 2020 giảm 3,6%/năm.

Trong đó: Sản xuất - tiêu dùng giấy chủ yếu tập trung ở các khu vực có quy mô kinh tế lớn, dân số đông như châu Âu, châu Á, Bắc Mỹ; trong đó khu vực châu Á đang là trọng tâm về sản xuất - tiêu dùng của thế giới hiện tại và tương lai còn đối với khu vực Bắc Mỹ và khối EU có xu hướng ổn định sản xuất trong tương lai. Khu vực Châu Âu và Bắc Mỹ đang là nơi xuất khẩu giấy của thế giới, trong khi đó khu vực Châu Á và Mỹ Latin đang là nơi nhập khẩu giấy nhiều nhất trên thế giới.

Bột giấy được sản xuất chủ yếu ở khu vực Bắc Mỹ, Châu Âu, Mỹ Latin và có tính ổn định cao; trong khi đó khu vực Châu Á có nhu cầu tiêu dùng bột giấy nhiều nhất chiếm tỷ trọng 34,7% của thế giới, nhưng sản xuất chỉ đáp ứng được 62% nhu cầu của khu vực. Bắc Mỹ và Mỹ Latin là hai khu vực xuất khẩu bột giấy của thế giới, Bắc Mỹ thừa cung 10,2 triệu tấn/ năm, Mỹ Latin thừa cung 18,2 triệu tấn/năm, Châu Á thiếu cung 23,7 triệu tấn/năm, khối EU thiếu cung 4,2 triệu tấn/năm, khu vực còn lại thiếu cung 0,5 triệu tấn/năm. Bột giấy sử dụng trong sản xuất các loại giấy chiếm tỷ trọng 41%, sử dụng trong sản xuất giấy bao bì chiếm tỷ trọng 23%. Bột tái chế sử dụng trong sản xuất các loại giấy chiếm tỷ trọng 59%, sử dụng trong sản xuất giấy bao bì chiếm tỷ trọng 77%.

Giấy tái chể (giấy thu hồi) là nguyên liệu đóng vai trò rất quan trọng trong ngành công nghiệp giấy của các nước phát triển nhờ tỷ lệ thu gom nội địa cao. Tỷ lệ thu gom tại Bắc Mỹ đạt tỷ lệ 70%, khối EU đạt tỷ lệ 73%, Nhật Bản đạt tỷ lệ 81,3%; trong khi đó khu vực châu Á tỷ lệ thu gom chỉ đạt 52,5%, dưới cả mức trung bình của thế giới 59%. Xuất khẩu giấy tái chế (giấy thu hồi) chủ yếu đến từ Bắc Mỹ, EU, Nhật Bản.

Khối EU thừa cung giấy tái chế 8,6 triệu tấn/năm, Bắc Mỹ thừa cung 20,5 triệu tấn/năm; châu Á thiếu cung 31 triệu tấn/năm, Mỹ Latin thiếu cung 0,8 triệu tấn/năm. Theo thống kê của Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC), nhu cầu nhập khẩu mặt hàng giấy các loại (HS 48, 53) của thế giới là rất lớn. Trong giai đoạn 2016 – 2020, nhu cầu nhập khẩu mặt hàng này của thế giới trung bình đạt 168 tỷ USD/năm; trong năm 2020 đạt 162 tỷ USD giảm 7,46% so với năm 2019 nhưng tăng 2,69% so với năm 2016. Trong cơ cấu thị trường xuất khẩu giấy các loại thế giới, Việt Nam đang đứng ở vị trí thứ 26, mặc dù kim ngạch xuất khẩu liên tục được cải thiện, nhưng xuất khẩu mặt hàng giấy các loại của Việt Nam vào thị trường thế giới chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ. Năm 2016, xuất khẩu giấy các loại của Việt Nam vào thị trường thế giới đạt 555 triệu USD thì năm 2020 đạt 1,42 tỷ USD chiếm thị phần 0,88% trong tổng kim ngạch thương mại mặt hàng giấy các loại của thế giới.

Về cơ cấu thị trường xuất khẩu: Châu Á vẫn là thị trường chủ yếu xuất khẩu mặt hàng giấy các loại của Việt Nam với tỷ trọng chiếm tới 70,6% tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng. Trong đó, Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản là 3 thị trường lớn nhất thuộc khu vực châu Á. Tiếp đến là thị trường Mỹ và ASEAN…Trong năm 2020, ngoài những thị trường xuất khẩu chủ lực, Việt Nam tăng xuất khẩu sang các thị trường tiềm năng khác. Tình hình sản xuất và xuất khẩu mặt hàng giấy các loại của Việt Nam và cơ hội xuất khẩu tại một số thị trường chủ lực Tăng trưởng sản xuất của ngành giấy Việt Nam chủ yếu đến từ giấy bao bì và giấy tissue, giấy in - viết; nhập khẩu chủ yếu là giấy bao bì tráng, giấy in - viết có tráng phủ, giấy photocopy cao cấp, các loại giấy đặc biệt; sản xuất bột giấy đáp ứng được 35% nhu cầu sử dụng; thu gom giấy thu hồi trong nước đạt 43%. Sản xuất giấy bao bì trong nước chủ yếu là giấy lớp mặt (testliner) và giấy lớp sóng (medium) dùng để sản xuất thùng các tông sóng, đáp ứng được 84% nhu cầu nội địa.

Nhập khẩu chiếm tỷ trọng 16% chủ yếu là giấy chất lượng cao; giấy bao bì tráng phủ trong nước sản xuất chỉ đáp ứng được 5% và chủ yếu là giấy cấp thấp, nhập khẩu chiếm tỷ trọng 95% trên tổng nhu cầu tiêu dùng.

 Năng lực sản xuất giấy bao bì tăng trưởng trung bình 29%/năm, sản xuất tăng trưởng 23%/năm, tiêu dùng tăng trưởng 13%/năm, xuất khẩu tăng trưởng 703%/năm, nhập khẩu tăng trưởng 7%/năm. Sản xuất trong nước chủ yếu là giấy in, viết không tráng phủ (UWF) và đáp ứng được 55% nhu cầu, còn lại 45% là nhập khẩu (chủ yếu là giấy photocopy cao cấp); giấy in, viết có tráng phủ (CWF) chưa sản xuất được, trung bình hàng năm nhập khẩu 260.000 tấn/năm, tuy nhiên nhập khẩu đang có dấu hiệu giảm. Năng lực sản xuất giấy in - viết giảm 6%/năm, sản xuất tăng trưởng 6%/năm nhưng hiện đã đạt tới hạn về sản xuất, xuất khẩu giảm 17%/năm, nhập khẩu tăng trưởng 0%/năm.

Sản xuất giấy tissue đã đáp ứng được nhu cầu trong nước về giấy vệ sinh, giấy khăn ăn, khăn lau mặt và tham gia vào thị trường xuất khẩu tương đối mạnh, năm 2018 xuất khẩu đạt 50.000 tấn, tuy nhiên lượng nhập khẩu về Việt Nam vẫn tăng mạnh, năm 2018 đạt 22.000 tấn (chưa tính các thành phẩm nhập khẩu). Năng lực sản xuất giấy tissue tăng trưởng 5%/ năm, sản xuất tăng trưởng 5%, tiêu dùng tăng trưởng 6%, nhập khẩu tăng trưởng 5%/năm.

Sản xuất bột giấy đáp ứng được 35% nhu cầu trong nước chủ yếu là bột tẩy trắng từ gỗ cứng và lượng bột giấy này chủ yếu sử dụng nội bộ cho sản xuất giấy của doanh nghiệp, nhập khẩu bột giấy chiếm tỷ trọng 65%. Năng lực sản xuất bột giấy trong nước không tăng, sản xuất tăng trưởng 5,4%/ năm, tiêu dùng tăng trưởng 4,6%/năm, nhập khẩu tăng trưởng 4,2%/năm. Nguồn cung bột giấy nhập khẩu cho thị trường Việt Nam chủ yếu đến từ Bắc Mỹ và Mỹ Latin.

Giấy thu hồi có vai trò rất quan trọng là nguyên liệu không thể thay thế trong sản xuất giấy của Việt Nam. Tỷ lệ sử dụng giấy thu hồi làm nguyên liệu sản xuất giấy các loại đạt tỷ lệ 87%, sử dụng trong sản xuất giấy bao bì đạt tỷ lệ 98%. Hoạt động thu gom giấy thu hồi đã phát triển mạnh và đạt được tỷ lệ 43%. Tuy nhiên tăng trưởng mạnh về sản xuất trong 2 năm gần đây, đặc biệt là giấy bao bì dẫn đến tỷ lệ thu gom trong nước không theo kịp. Kết hợp với đó là hoạt động thu gom mang tính tự phát, manh mún, lạc hậu nên chưa mang lại hiệu quả cao.

Xu hướng cung - cầu bột giấy và giấy thu hồi tại thị trường Việt Nam đến năm 2025

Tăng trưởng bột giấy, đặc biệt tăng trưởng mạnh liên tục hàng năm nhu cầu giấy thu hồi cho sản xuất giấy. Bột giấy hóa: Sản xuất tăng trưởng khoảng 28%/năm, tiêu dùng tăng trưởng khoảng 6%/năm. Giấy thu hồi, nhu cầu sử dụng để sản xuất giấy tăng khoảng 35%/năm, dự kiến đến năm 2025 nhu cầu sử dụng lên đến 13,2 triệu tấn (năm 2018 đang sử dụng 3,7 triệu tấn).

Cơ hội cho ngành giấy Việt Nam

Theo đánh giá, xuất khẩu bột giấy hóa, giấy bao bì vào thị trường Trung Quốc; nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng trưởng cao trong những năm tới. Theo đó, tiêu dùng bột giấy của Trung Quốc khoảng 32 triệu tấn/năm, sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được 33% nhu cầu. Xuất khẩu giấy bao bì vào thị trường Trung Quốc, dự kiến trong khoảng thời gian năm 2020 - 2021 giấy bao bì khoảng 8 triệu tấn/năm, do chính sách về nhập khẩu phế liệu giấy. Trong nước, hiện nay tiêu thụ giấy bình quân của người dân còn rất thấp, đạt 50,7kg/người/năm so với mức tiêu thụ bình quân của thế giới là 70kg/người/ năm, Thái Lan 76 kg/người/năm, Mỹ và EU 200 - 250 kg/người/năm. Có thể nói, thị trường giấy trong nước còn nhiều khoảng trống, đặc biệt là phân khúc sản phẩm giấy bao bì cao cấp (tráng phủ).


Tác giả: An Nhiên
Nguồn:Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại Copy link

Tin liên quan

Tin nổi bật

Liên kết website