Phát triển chuỗi liên kết cà phê gắn với bảo vệ môi trường: Nâng tầm giá trị, mở rộng thị trường
Việc sản xuất, chế biến cà phê gắn với bảo vệ môi trường, sẽ góp phần nâng cao giá trị thương hiệu của sản phẩm, mở rộng thị trường xuất khẩu trong nước và thế giới.
Doanh nghiệp tiên phong chế biến cà phê gắn với phát triển bền vững
Trong bối cảnh nông nghiệp toàn cầu đang dịch chuyển mạnh mẽ sang hướng phát triển xanh, thân thiện với môi trường, câu chuyện của những hạt cà phê sạch từ Tây Nguyên đến Sơn La đang trở thành minh chứng sống động cho một chiến lược phát triển cà phê bền vững, nâng cao giá trị xuất khẩu và khẳng định thương hiệu quốc gia.
Ở Gia Lai, nhiều doanh nghiệp đã tiên phong phát triển cà phê sạch, bền vững. Không chỉ chú trọng đến chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp còn đặt trọng tâm vào giảm tác động môi trường trong toàn bộ chuỗi sản xuất. Doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư máy móc hiện đại, nâng cấp dây chuyền chế biến, hướng tới tạo ra giá trị gia tăng cao thay vì phụ thuộc vào các ngành thâm dụng lao động và gây nhiều hệ lụy môi trường.

Ông Thái Như Hiệp – Chủ tịch HĐTV Công ty TNHH Vĩnh Hiệp cho biết: “Chúng tôi luôn đảm bảo thực hiện nghiêm túc chính sách phát triển bền vững, từ sản xuất cà phê nhân xanh đến cà phê chế biến sâu. Với hơn 30 năm gắn bó cùng hạt cà phê, mục tiêu lớn nhất của Vĩnh Hiệp là xây dựng nền nông nghiệp sạch, đưa sản phẩm chất lượng cao của Việt Nam ra thế giới”.
Trong lộ trình phát triển đó, Vĩnh Hiệp tập trung triển khai các nguyên tắc sản xuất bền vững theo bộ tiêu chuẩn Hiệp hội 4C, bao gồm: Đảm bảo điều kiện sinh sống và làm việc tốt cho người lao động và gia đình. Bảo tồn đa dạng sinh học, giảm thiểu tối đa tác động đến môi trường thông qua việc tham gia huấn luyện, đào tạo cho nông dân và nhân viên về kỹ thuật canh tác, đầu tư vào năng lượng tái tạo. Đảm bảo thu nhập hợp lý, tạo cơ hội tiếp cận thị trường công bằng, duy trì sinh kế bền vững cho nông hộ trong chuỗi giá trị cà phê.
Một dấu mốc quan trọng là ngày 12/1/2023, Vĩnh Hiệp chính thức được Hiệp hội 4C cấp chứng nhận 4C Carbon Footprint Add-On, qua đó trở thành doanh nghiệp cà phê đầu tiên tại Việt Nam được công nhận là đơn vị quản lý tốt lượng khí nhà kính và có những đóng góp thiết thực trong việc giảm phát thải vì môi trường.
Ông chủ thương hiệu L’amant Café cũng chia sẻ: “Cà phê của chúng tôi đã xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới và đang tiến tới mục tiêu 1 tỷ đô la. Đây là thành quả của hơn 30 năm xây dựng và phát triển, gắn với hành trình cùng người nông dân Tây Nguyên, đồng bào các dân tộc tỉnh Gia Lai tạo dựng nên một chuỗi cung ứng sản phẩm cà phê hữu cơ, giàu bản sắc về tính chất, trách nhiệm với môi trường và thể hiện được truy xuất nguồn gốc của sản phẩm.
Chúng tôi cũng muốn các nước trên thế giới hiểu rằng, Việt Nam đã có những sản phẩm mà người ta sản xuất dựa trên cách tính về trách nhiệm môi trường, giảm phát thải khí nhà kính, thân thiện với môi trường. Các sản phẩm đã công bố trên bao bì chỉ số giảm phát thải, phù hợp với lộ trình năm 2030 của Chính phủ và mục tiêu Net Zero vào năm 2050”.

Ông Thái Như Hiệp cũng cho biết, trong sản xuất, doanh nghiệp này đã liên kết tất cả vùng nguyên liệu của đồng bào dân tộc thiểu số theo 1 chứng nhận của một tổ chức đầu vào và tổ chức đầu ra theo chính sách, quy trình để thân thiện môi trường và trách nhiệm xã hội. Doanh nghiệp này đã tính toán hết trên một cánh đồng lớn trên 1ha về sự trung hòa cac bon giữa xen canh cây trồng và tập trung vào giảm thiểu vật tư nông nghiệp đầu vào, tiết kiệm nước, giữ ẩm đất và có được sản phẩm tốt, sản phẩm thân thiện, đáp ứng những tiêu chuẩn khắt khe của thị trường toàn cầu.
“Chúng tôi tự hào nhấn mạnh rằng, đây là sản phẩm organic đầu tiên của Việt Nam được xuất khẩu ra thế giới. Đây là một sản phẩm do chính bàn tay người Việt Nam, đặc biệt là đồng bào dân tộc Tây Nguyên làm ra”, ông chủ thương hiệu L’amant Café nhấn mạnh.
Thành công Vĩnh Hiệp không chỉ khẳng định năng lực sản xuất bền vững của doanh nghiệp, mà còn cho thấy hướng đi đúng đắn của ngành cà phê Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và yêu cầu ngày càng cao về sản phẩm xanh - sạch. Với những giá trị bền vững, thương hiệu L’amant Café không chỉ là niềm tự hào của doanh nghiệp khi sản phẩm cà phê hữu cơ này còn trở thành thương hiệu quốc gia và chinh phục nhiều thị trường khó tính trên thế giới.
Thách thức xử lý chất thải và phụ phẩm trong chế biến cà phê
Không chỉ Tây Nguyên, tỉnh Sơn La được coi là thủ phủ cà phê phía Bắc cũng đang đẩy mạnh phát triển cà phê theo hướng bền vững. Trong giai đoạn 2021-2025, tỉnh Sơn La đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết và kế hoạch phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ cà phê theo hướng bền vững. Trong đó có việc xây dựng vùng nguyên liệu gắn với chế biến và bảo vệ môi trường.
Đến năm 2025, diện tích cà phê toàn tỉnh đạt 24.300 ha, sản lượng hơn 37.700 tấn, trong đó có 1.120 ha cà phê đặc sản. Ngành chế biến cũng phát triển mạnh với 5 cơ sở quy mô công nghiệp và hơn 15 cơ sở sơ chế, đáp ứng trên 50% nhu cầu chế biến quả tươi. Tuy nhiên, Sơn La vẫn đối diện thách thức lớn về xử lý chất thải và phụ phẩm trong chế biến cà phê. Với đặc thù cà phê chè (Arabica) chế biến ướt, mỗi năm toàn tỉnh phát sinh khoảng 90.000 tấn vỏ quả và hơn 100.000 m³ nước thải. Nếu không được xử lý đúng cách, đây có thể trở thành nguồn gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Trong khi đó, nếu tận dụng hợp lý, phụ phẩm có thể biến thành phân bón hữu cơ, trà cascara hay nguyên liệu chế biến sâu, góp phần gia tăng giá trị. Thực tế cho thấy, một số cơ sở, hộ gia đình đã áp dụng công nghệ sinh học xử lý vỏ cà phê, nhưng việc xử lý nước thải vẫn là bài toán nan giải. Nhiều ý kiến cho rằng cần có cơ chế hỗ trợ vốn, đào tạo kỹ thuật, thúc đẩy liên kết HTX - doanh nghiệp - nông dân để bảo đảm sản xuất bền vững và giảm thiểu tác động môi trường.
Theo ông Lưu Ngọc Quyến, Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, xử lý chất thải và phụ phẩm trong sản xuất cà phê là một trong những thách thức lớn trong chế biến cà phê tại Sơn La. “Nếu được xử lý hợp lý, các phụ phẩm này hoàn toàn có thể tái sử dụng hiệu quả, như chế biến trà cascara từ vỏ cà phê, sản xuất phân bón hữu cơ hoặc làm nguyên liệu cho các hoạt động chế biến sâu. Tuy nhiên, riêng khâu xử lý nước thải vẫn là bài toán nan giải nhất”, ông Lưu Ngọc Quyến cho biết.

Có thể thấy, xử lý chất thải và phụ phẩm trong chế biến cà phê tại Sơn La không chỉ là thách thức về môi trường, mà còn là cơ hội để địa phương nâng cấp chuỗi giá trị cà phê theo hướng xanh - sạch - bền vững. Nếu giải quyết tốt, Sơn La sẽ vừa giảm thiểu ô nhiễm, vừa tạo thêm sản phẩm phụ hữu ích, nâng cao sức cạnh tranh của cà phê Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Trước bối cảnh đó, nhiều doanh nghiệp ở Sơn La đã ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn vào chế biến cà phê, điển hình là Công ty cổ phần Tập đoàn Minh Tiến. Những năm gần đây, doanh nghiệp đã triển khai áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn vào sản xuất, bảo đảm không có thành phần nào của quả cà phê bị loại bỏ. Phế phẩm trong chế biến của sản phẩm này sẽ trở thành nguyên liệu sản xuất sản phẩm khác, không những đạt chất lượng cao, còn tốt cho sức khỏe con người. Trong đó, cà phê hạt xanh không chỉ đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sang thị trường khó tính, còn để sản xuất cà phê rang xay, cà phê hòa tan Coffilia; trà Cascara Hà Chúc làm từ vỏ thịt trái cà phê; sản phẩm sinh học Namigo có nguồn gốc từ bã và vỏ trấu cà phê và phân bón hữu cơ Mộc Khang từ vỏ thịt và vỏ trấu cà phê... Nhờ chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, các sản phẩm của doanh nghiệp này được xuất khẩu sang thị trường Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Nhật Bản.
Để giải quyết bài toán môi trường gắn với chế biến cà phê, các chuyên gia kinh tế cho rằng, Sơn La có thể triển khai đồng bộ nhiều giải pháp: Tận dụng phụ phẩm làm phân hữu cơ; đầu tư công nghệ xử lý nước thải; liên kết doanh nghiệp - nông dân; chính sách hỗ trợ từ địa phương…
Từ những cánh đồng hữu cơ ở Gia Lai đến những vườn cà phê Arabica ở Sơn La, có thể thấy cà phê Việt Nam đang chuyển mình theo hướng xanh - sạch - bền vững. Câu chuyện của L’amant Café hay việc doanh nghiệp ứng dụng mô hình chế biến tuần hoàn ở Sơn La đều minh chứng rằng chỉ khi sản xuất gắn với bảo vệ môi trường, sản phẩm mới có thể nâng cao giá trị thương hiệu, mở rộng thị trường trong nước và thế giới.