Giải pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả tận dụng ưu đãi từ hiệp định CPTPP
Sau 6 năm thực thi, CPTPP đã mở ra dư địa đáng kể cho hàng hóa Việt Nam tiếp cận các thị trường mới với thuế quan ưu đãi sâu. Tuy tỷ lệ sử dụng C/O mẫu CPTPP tăng đều qua các năm, song vẫn được đánh giá chưa tương xứng với tiềm năng.
Tận dụng C/O CPTPP tăng trưởng rõ nét
Theo bà Trịnh Thị Thu Hiền - Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), bức tranh tổng thể về việc sử dụng, áp dụng quy tắc xuất xứ trong khuôn khổ Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cho thấy xu hướng tăng trưởng rõ ràng trong suốt giai đoạn 2019 - 2024.
Nếu như năm 2019 - năm đầu hiệp định có hiệu lực - kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang các nước CPTPP được cấp C/O mới đạt khoảng 0,7 tỷ USD, tương đương khoảng 2%, thì đến năm 2024 con số này đã tăng lên xấp xỉ 5 tỷ USD, chiếm khoảng 8,8%. Nhìn trên cả chặng đường 6 năm, đây là mức tăng trưởng đáng ghi nhận, phản ánh sự thích ứng dần dần của doanh nghiệp Việt Nam với các quy định xuất xứ tương đối chặt chẽ của CPTPP.

Quy tắc xuất xứ từ sợi khiến doanh nghiệp dệt may khó tận dụng C/O từ CPTPP. Ảnh: Cấn Dũng
Đáng chú ý, hiệu quả tận dụng C/O CPTPP thể hiện rõ nét nhất tại những thị trường lần đầu tiên Việt Nam có hiệp định thương mại tự do (FTA) và được hưởng ưu đãi thuế quan, như Mexico, Canada, Peru. Với Mexico, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu có C/O CPTPP từ mức khoảng 7% năm 2019 đã tăng vọt lên 47% vào năm 2024 - một “độ dốc” rất cao trong thời gian ngắn. Riêng một số mặt hàng, mức tận dụng còn ấn tượng hơn, như thủy sản đạt 70 - 80% kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này có C/O CPTPP.
Tại Canada, dù mức tăng không đột biến như Mexico nhưng xu hướng vẫn rất rõ ràng, từ khoảng 8% năm 2019 lên 17 - 18% năm 2024. Một số nhóm hàng đạt tỷ lệ khá cao, như vali, túi xách, mũ, ô dù, thảm cói, mây tre đan ở mức 42 - 45%, còn thủy sản lên tới khoảng 80%. Những con số này cho thấy, ở các thị trường mới, doanh nghiệp Việt Nam có xu hướng tận dụng ưu đãi xuất xứ khá tốt.
Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy sự không đồng đều giữa các thị trường và các mặt hàng. Có thị trường tăng rất nhanh, có thị trường tăng chậm, có ngành hàng tận dụng cao, nhưng cũng có ngành còn dè dặt. Điều này đặt ra yêu cầu nhìn nhận sâu hơn về nguyên nhân của sự chênh lệch.
Một điểm thường được nhắc tới là tỷ lệ sử dụng C/O CPTPP có vẻ thấp hơn so với Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) hay Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Vương Quốc Anh và Bắc Ailen (UKVFTA). Theo bà Trịnh Thị Thu Hiền, sự khác biệt này cần được nhìn nhận trong bối cảnh tổng thể của mạng lưới FTA mà Việt Nam đang tham gia.
Với EU hay Vương quốc Anh, mỗi thị trường chỉ gắn với một hiệp định thương mại tự do duy nhất. Do đó, hàng hóa xuất khẩu gần như không có nhiều lựa chọn khác nếu muốn hưởng ưu đãi thuế quan. Trong khi đó, CPTPP là một hiệp định đa phương và nhiều thành viên CPTPP đồng thời cũng nằm trong các hiệp định thương mại tự do khác với Việt Nam.
Ví dụ điển hình là Australia và Nhật Bản. Hàng hóa xuất khẩu sang Australia có thể lựa chọn ưu đãi theo CPTPP, Hiệp định thành lập Khu vực thương mại tự do ASEAN - Australia - New Zealand (AANZFTA) hoặc Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP); còn với Nhật Bản, doanh nghiệp Việt Nam có tới bốn “cửa” ưu đãi gồm CPTPP, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện (AJCEP), Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) và RCEP. Mỗi khuôn khổ lại có bộ quy tắc xuất xứ và mẫu C/O khác nhau, dẫn tới việc “chia sẻ” tỷ lệ sử dụng C/O giữa các hiệp định.
Chẳng hạn, tỷ lệ C/O CPTPP cho hàng xuất khẩu sang Nhật Bản chỉ khoảng 3 - 5%, nhưng nếu cộng gộp các hiệp định khác, tổng tỷ lệ kim ngạch được hưởng ưu đãi thuế quan lên tới khoảng 50%. Vì vậy, nếu chỉ nhìn vào riêng C/O CPTPP mà kết luận mức tận dụng thấp thì sẽ chưa phản ánh đầy đủ thực tế.
Vì sao có sự chênh lệch trong tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi?
Bên cạnh yếu tố chia sẻ FTA, một hạn chế khác đến từ sự khác biệt về quy tắc xuất xứ giữa các ngành hàng. Với da giày, quy tắc xuất xứ trong CPTPP tương đối tương đồng với nhiều FTA khác, nên tỷ lệ tận dụng nhìn chung ở mức cao. Ngược lại, với dệt may, CPTPP áp dụng quy tắc “từ sợi trở đi” chặt chẽ hơn đáng kể so với EVFTA (từ vải trở đi) hay một số FTA với khu vực ASEAN (chỉ cần công đoạn cắt may). Điều này khiến nhiều doanh nghiệp, do phụ thuộc nguyên phụ liệu nhập khẩu ngoài khối, chưa thể đáp ứng để xin C/O CPTPP.

Da giày được nhận định tận dụng tốt CPTPP trong xuất khẩu. Ảnh: Cấn Dũng
Từ thực tiễn đó, bà Trịnh Thị Thu Hiền cho rằng quy tắc xuất xứ không nên được nhìn như rào cản, mà là động lực để doanh nghiệp điều chỉnh chuỗi sản xuất, tiệm cận hơn với các chuẩn mực quốc tế. Xuất xứ, xét đến cùng, chính là chìa khóa để nâng cao năng lực cạnh tranh, nhất là trong bối cảnh thương mại toàn cầu biến động khó lường.
Ở góc độ quản lý, Cục Xuất nhập khẩu đang triển khai đồng bộ nhiều giải pháp: Hoàn thiện khung pháp lý về xuất xứ, tăng cường phân cấp cấp C/O, đẩy mạnh đào tạo cho cả cán bộ và doanh nghiệp, phối hợp chặt chẽ với hải quan nước nhập khẩu trong xác minh xuất xứ, cũng như cải cách thủ tục hành chính để hỗ trợ doanh nghiệp kịp thời.
Về phía doanh nghiệp, các chuyên gia cũng khuyến nghị, cần chủ động lựa chọn FTA có lợi nhất, nắm vững quy tắc xuất xứ tương ứng, tổ chức lưu trữ hồ sơ bài bản để sẵn sàng cho kiểm tra sau thông quan. Những ví dụ rất cụ thể như chênh lệch thuế 0% và 18% với mặt hàng bít tất dệt kim vào Canada cho thấy, tận dụng hay không tận dụng ưu đãi xuất xứ có thể quyết định trực tiếp đến sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam.
Sau 6 năm thực thi, CPTPP đã chứng minh hiệu quả tích cực, nhất là tại các thị trường mới. Vấn đề còn lại không nằm ở việc có ưu đãi hay không, mà ở chỗ doanh nghiệp có đủ thông tin, đủ năng lực và đủ quyết tâm để khai thác hay không. Đây cũng chính là không gian mà chính sách và nỗ lực hỗ trợ của cơ quan quản lý cần tiếp tục phát huy trong thời gian tới.

