Gỡ nút thắt nguyên phụ liệu, dệt may tận dụng dài hạn C/O ưu đãi
Có kim ngạch thuộc top đầu trong các ngành hàng xuất khẩu nhưng do phụ thuộc nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu, nhiều doanh nghiệp dệt may chưa tận dụng tốt C/O ưu đãi, khai thác thế mạnh từ các FTA.
Tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi chưa cao
Với kim ngạch dự kiến đạt 46 tỷ USD trong năm nay, tăng trưởng 6% so với cùng kỳ năm 2024, dệt may tiếp tục nằm trong nhóm ngành xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Quy mô này không chỉ khẳng định vai trò quan trọng của dệt may trong cơ cấu xuất khẩu, mà còn giúp Việt Nam duy trì vị thế trong top 3 quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới.
Trong bối cảnh thương mại toàn cầu nhiều biến động, lợi thế lớn của dệt may Việt Nam là mạng lưới hiệp định thương mại tự do (FTA) rộng khắp. Theo ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, việc tham gia nhiều FTA giúp hàng dệt may Việt Nam có thêm “đường vào” các thị trường lớn, đồng thời ưu đãi thuế quan được xem là đòn bẩy quan trọng để cải thiện biên lợi nhuận và tăng tính bền vững cho xuất khẩu.

Ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam
Tuy nhiên, dù kim ngạch lớn nhưng ngành dệt may vẫn được đánh giá có giá trị gia tăng chưa cao. Một trong những nguyên nhân quan trọng là tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi của doanh nghiệp dệt may còn thấp, chưa tương xứng với quy mô xuất khẩu.
Thực tế cho thấy, tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan từ các FTA của ngành dệt may vẫn khá khiêm tốn. Với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), tỷ lệ tận dụng mới khoảng 15%. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có tỷ lệ cao hơn, khoảng từ 30 - 35%. Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh và Bắc Ireland (UKVFTA) dù ghi nhận xu hướng cải thiện nhưng chưa tạo được bước bứt phá rõ nét.
TS. Nguyễn Thị Thu Trang - Chuyên gia cao cấp về Hội nhập và kinh tế quốc tế, cho rằng: Tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi của doanh nghiệp dệt may phân hoá rõ nét theo quy định xuất xứ của mỗi FTA.
Đặc biệt, các FTA thế hệ mới đều đặt ra yêu cầu chặt chẽ hơn về xuất xứ. EVFTA và UKVFTA áp dụng quy tắc “từ vải trở đi”, trong khi CPTPP yêu cầu “từ sợi trở đi”. Điều này đồng nghĩa với việc ít nhất hai hoặc ba công đoạn trong chuỗi sản xuất phải được thực hiện tại Việt Nam hoặc trong khu vực được phép cộng gộp xuất xứ.
Điểm yếu cố hữu của dệt may Việt Nam lại nằm ở khâu nguyên phụ liệu, đặc biệt là dệt, nhuộm và vải. “Phần lớn vải đầu vào hiện vẫn phải nhập khẩu từ các thị trường ngoài khối FTA hoặc không thuộc diện cộng gộp xuất xứ. Hệ quả là không ít lô hàng đáp ứng đầy đủ yêu cầu về chất lượng, tiến độ giao hàng nhưng vẫn không đủ điều kiện để xin C/O ưu đãi”, TS. Nguyễn Thị Thu Trang cho hay.
Ở góc độ doanh nghiệp, đây không chỉ là vấn đề kỹ thuật mà là bài toán kinh tế. Việc chuyển sang sử dụng nguyên liệu đáp ứng quy tắc xuất xứ thường kéo theo chi phí cao hơn, chuỗi cung ứng phức tạp hơn, trong khi mức ưu đãi thuế quan chưa chắc đủ để bù đắp ngay trong ngắn hạn. Vì vậy, không ít doanh nghiệp vẫn lựa chọn cách làm quen thuộc là nhập nguyên liệu rẻ, thuận tiện, gia công theo đơn hàng, chấp nhận biên lợi nhuận thấp nhưng ít rủi ro.
Bên cạnh yếu tố nguyên phụ liệu, tư duy vận hành cũng là rào cản đáng kể. Không ít doanh nghiệp dệt may vẫn ưu tiên lợi ích ngắn hạn, ngại đầu tư chiều sâu cho chuỗi cung ứng, chưa mặn mà với minh bạch hóa nguồn gốc nguyên liệu hay đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững ngày càng khắt khe tại các thị trường có FTA.
Trong khi đó, tận dụng C/O ưu đãi lại đòi hỏi doanh nghiệp phải có tầm nhìn dài hạn, chấp nhận đầu tư, chấp nhận giai đoạn chuyển đổi và thậm chí chấp nhận chi phí cao hơn trong ngắn hạn để đổi lấy giá trị xuất khẩu cao hơn, ổn định hơn về lâu dài. Đây là lựa chọn không dễ, đặc biệt với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi năng lực tài chính còn hạn chế.
Chiến lược dài hạn để khai thác bền vững các FTA
Từ thực tiễn phát triển của ngành dệt may có thể thấy, tăng tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi là vấn đề khó và đòi hỏi sự thay đổi đồng thời từ nhiều phía.
Bày tỏ quan điểm về vấn đề này, ông Ngô Chung Khanh - Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công Thương cho rằng: Với doanh nghiệp, trước hết cần xác định rõ chiến lược thị trường. Việc phân bổ tỷ trọng xuất khẩu hợp lý giữa Mỹ, EU, Canada, Trung Đông hay Nam Mỹ sẽ giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong việc xây dựng chuỗi cung ứng phù hợp với từng thị trường, từng hiệp định. Song song với đó, doanh nghiệp cần từng bước chuyển từ gia công sang định vị giá trị, đầu tư cho chất lượng sản phẩm, minh bạch chuỗi cung ứng và đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững.

Giải bài toán thiếu nguyên phụ liệu sẽ giúp ngành dệt may tăng đực tỷ lệ tận dụng C/O, khai thác các FTA. Ảnh: Nguyễn Nam
Về phía chính sách, phát triển công nghiệp phụ trợ, đặc biệt là dệt và nhuộm, cần được nhìn nhận đúng vị trí và triển khai quyết liệt hơn. Thực tế cho thấy, dù đã có doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nguyên phụ liệu, nhưng định hướng của doanh nghiệp và chính sách vẫn chưa thực sự “gặp nhau”. Điều này đòi hỏi sự kết nối hai chiều, trong đó, cơ quan quản lý khi xây dựng chính sách cần lắng nghe doanh nghiệp để hiểu họ cần gì, đang phát triển theo hướng nào. Ngược lại, doanh nghiệp cũng phải chủ động bám sát và tận dụng các định hướng chính sách.
Một vấn đề nữa là sự rời rạc giữa các chính sách liên quan. Phát triển dệt, nhuộm không thể chỉ dừng ở chiến lược ngành, mà cần đi kèm các chính sách cụ thể về đất đai, thuế, môi trường và hạ tầng. Trong thực tế, không ít địa phương vẫn chưa khuyến khích các dự án dệt, nhuộm do tư duy cũ, lo ngại ô nhiễm, trong khi chưa cập nhật đầy đủ rằng công nghệ hiện nay đã khác xa trước đây.
Trong bối cảnh đó, thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài sẽ giúp ngành dệt may tiến nhanh hơn trên lộ trình tự chủ nguyên phụ liệu, chủ động đáp ứng quy tắc xuất xứ và tận dụng dài hạn ưu đãi từ các FTA. Việc nhiều dự án đầu tư nước ngoài vào sản xuất nguyên phụ liệu dệt may liên tục được khởi công từ đầu năm đến nay cho thấy sức hấp dẫn của lĩnh vực này. Tuy nhiên, để dòng vốn đổ về mạnh mẽ và bền vững hơn, cần có thể chế rõ ràng, ổn định, chính sách môi trường cập nhật theo công nghệ mới và đặc biệt là sự sẵn sàng tiếp nhận dự án của các địa phương.
“Liên kết chuỗi vẫn là yếu tố then chốt. Từ liên kết giữa nhà sản xuất vải và nhà may, đến vai trò dẫn dắt của các doanh nghiệp lớn trong nước, tất cả đều hướng tới mục tiêu nâng tỷ lệ nội địa hóa, giảm phụ thuộc nhập khẩu và từng bước đáp ứng tốt hơn các quy tắc xuất xứ. Khi chuỗi cung ứng được kết nối chặt chẽ, C/O ưu đãi mới thực sự trở thành lợi thế cạnh tranh dài hạn, thay vì chỉ là cơ hội bị bỏ lỡ trong ngắn hạn”, ông Ngô Chung Khanh nhấn mạnh.

