Xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU trước yêu cầu ngày càng cao về tính bền vững
Với nhu cầu nhập khẩu thủy sản ước tính hơn 30 tỷ EUR mỗi năm, EU được đánh giá là một trong những thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế giới, với nhu cầu nhập khẩu đa dạng. Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường này từ đầu năm 2025 đến nay cho thấy nhiều tín hiệu lạc quan. Tuy nhiên, để duy trì tốc độ tăng trưởng và mở rộng thị phần, ngành thủy sản cần mở rộng sang mô hình sản xuất bền vững và đáp ứng nhanh các tiêu chuẩn mới của EU.
Tôm là mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Theo số liệu thống kê của Cục Hải quan Việt Nam, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU quý III/2025 đạt 71,07 nghìn tấn, trị giá 327,78 triệu USD, tăng 11% về lượng và tăng 18% về trị giá so với quý III/2024. Tính chung, 9 tháng năm 2025 xuất khẩu thủy sản sang khu vực này đạt 194,1 nghìn tấn với trị giá 867,22 triệu USD, tăng 4,6% về lượng và tăng 11,2% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024, chiếm 10,73% về lượng và chiếm 10,62% về trị giá trong tổng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. EU là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn thứ 4 của Việt Nam (tính theo trị giá) sau Trung Quốc, Hoa Kỳ, và Nhật Bản.

Trong cơ cấu mặt hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong quý III/2025 và 9 tháng năm 2025, tôm các loại mặt hàng xuất khẩu lớn nhất và đạt mức tăng trưởng khá cao. Cụ thể, trong quý III/2025, xuất khẩu tôm sang EU tăng 20,6% về lượng và tăng 25,6% về trị giá so với quý III/2024. Tính chung 9 tháng năm 2025, mặt hàng này tăng 33,1% về lượng và tăng 24,1% về trị giá so với 9 tháng đầu năm 2024. Sau tôm, xuất khẩu cá đông lạnh, chả cá cũng đạt mức tăng trưởng trong quý III/2025 và 9 tháng năm 2025. Trái lại xuất khẩu cá ngừ, cá tra, basa, bạch tuộc, cá khô... giảm.
Mặt khác, theo số liệu tính toán từ Cơ quan Thống kê châu Âu (Eurostat), nhập khẩu hàng thủy sản của EU từ các thị trường ngoại khối trong 8 tháng đầu năm 2025 đạt 3,6 triệu tấn, trị giá 19,76 tỷ EUR (tương đương 22,84 tỷ USD), tăng 8,9% về lượng và tăng 7% về trị giá so với so với cùng kỳ năm ngoái.
Các nhà cung cấp hàng thủy sản lớn cho EU là Na Uy, Ecuador, Marôc, Trung Quốc, Anh, Băng Đảo, Ấn Độ, Việt Nam, Thổ Nhĩ Kỳ. Trong đó, EU tăng nhập khẩu thủy sản từ nhiều thị trường, EU cũng tăng nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam với mức tăng 14,3% về lượng và tăng 15,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2024. Thị phần thủy sản của Việt Nam tại EU ngoại khối tăng từ 3,73% về lượng và 2,91% về trị giá trong 8 tháng đầu năm 2024 lên 3,91% về lượng và 3,14% về trị giá trong 8 tháng đầu năm 2025. Nhận thấy, trong 8 tháng đầu năm 2025, nhu cầu tiêu thụ hàng thủy sản tại EU vẫn tăng, tạo cơ hội cho nhiều đối tác cung ứng, trong đó có Việt Nam.
Theo nhận định của các chuyên gia, EU là một trong những thị trường tiêu thụ thủy sản hàng đầu thế giới, với mức tiêu thụ bình quân đầu người khoảng 24,5 kg/năm. Người tiêu dùng EU có xu hướng ưu tiên các sản phẩm chế biến sâu, có giá trị gia tăng cao và tiện lợi - nhóm sản phẩm mà các doanh nghiệp Việt Nam đang có lợi thế và được khối thị trường này khuyến khích phát triển. Trong thời gian tới, tôm vẫn sẽ là mặt hàng thủy sản chủ lực của Việt Nam tại EU.
Tuy nhiên, mức độ cạnh tranh dự kiến sẽ gia tăng khi các đối thủ tiếp tục nâng cao chất lượng và tối ưu giá thành để tăng sức cạnh tranh. Do đó, doanh nghiệp xuất khẩu tôm Việt Nam cần tạo dựng lợi thế riêng, tận dụng tối đa các ưu thế sẵn có, đồng thời chủ động vượt qua các rào cản kỹ thuật và yêu cầu ngày càng nghiêm ngặt về tính bền vững.
Đối với mặt hàng cá ngừ, việc bảo đảm ổn định nguồn cung kết hợp với ưu đãi thuế quan từ EVFTA sẽ giúp sản phẩm duy trì lợi thế cạnh tranh. Nếu Việt Nam gỡ bỏ được “thẻ vàng” IUU và đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn cao của EU về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc và khai thác bền vững, xuất khẩu cá ngừ sang thị trường này sẽ có dư địa tăng trưởng mạnh hơn. Nhu cầu tiêu thụ cá tra, basa tại EU tiếp tục duy trì xu hướng tích cực.
Cá tra Việt Nam được đánh giá là nguồn cá thịt trắng có giá cả phải chăng, phù hợp với xu hướng tiêu dùng tiết kiệm trong bối cảnh kinh tế và lạm phát tại EU còn nhiều biến động. Do vậy, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh truyền thông, đồng thời đảm bảo chất lượng sản phẩm và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của EU cũng như các tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế.
Với những kết quả đã đạt được trong thời gian qua, ước tính năm 2025, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU đạt 257,2 nghìn tấn, trị giá khoảng 1,18 tỷ USD, tăng 2,6% về lượng và 13,6% về trị giá so với năm 2024. Năm 2026, kim ngạch xuất khẩu dự báo tiếp tục duy trì trên 1 tỷ USD.
EVFTA - đòn bẩy quan trọng cho xuất khẩu thủy sản
Tại Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Thương mại Việt Nam - EU năm 2025, bà Tô Thị Tường Lan, Phó tổng Thư ký Vasep thông tin, tại thị trường EU, nhu cầu nhập khẩu thủy sản ước tính hơn 30 tỷ EUR mỗi năm, là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Trung Quốc.
“Kể từ khi Hiệp định EVFTA có hiệu lực vào tháng 8/2020, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU-27 đạt 958,7 triệu USD và dự kiến năm 2025 sẽ tăng lên gần 1,2 tỷ USD. Dù chưa có bước đột phá về thị phần trong 5 năm qua, EVFTA vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì đà tăng trưởng ổn định của thương mại Việt Nam - EU giữa bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động”, bà Lan đánh giá.
Trong bối cảnh thị trường EU ngày càng đề cao tiêu chuẩn về chất lượng, bền vững và minh bạch, ngành thủy sản Việt Nam cần xây dựng một chiến lược tổng thể dựa trên bốn trụ cột chính nhằm duy trì và mở rộng thị phần trong giai đoạn tới.
Thứ nhất là phát triển bền vững. Đây là vấn đề rất lớn, liên quan trực tiếp đến việc sử dụng hợp lý tài nguyên đất và nước, giảm phát thải khí nhà kính, xử lý nước thải hiệu quả, đồng thời bảo tồn đa dạng sinh học. Phát triển bền vững không chỉ là yêu cầu của thị trường mà còn là hướng đi tất yếu giúp doanh nghiệp đảm bảo năng lực cạnh tranh dài hạn.
Thứ hai là nâng cao chất lượng và phát triển sản phẩm cao cấp. Trong lĩnh vực nuôi trồng, ngành thủy sản cần tiếp tục cải thiện chuỗi nuôi, tăng cường giám sát dư lượng kháng sinh và thuốc thú y, đồng thời ứng dụng công nghệ mới nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm và năng suất cao hơn. Ở khâu chế biến, định hướng chiến lược là chuyển từ xuất khẩu hàng thô sang hàng giá trị gia tăng, đồng thời khai thác tốt hơn các sản phẩm đặc trưng của Việt Nam như tôm - lúa, tôm rừng ngập mặn, hay tận dụng phế phẩm để sản xuất sản phẩm phụ có giá trị cao hơn.
Phó tổng Thư ký Vasep nhấn mạnh, Việt Nam đang nổi lên như một trung tâm chế biến hàng giá trị gia tăng. Các sản phẩm có nguồn gốc từ thủy sản Việt Nam ngày càng xuất hiện phổ biến tại các thị trường lớn như Nhật Bản, Anh và Đức. Điển hình, nguyên liệu từ Việt Nam đã được sử dụng trong các món humburger được ưa chuộng tại Nhật hay các sản phẩm thủy sản chế biến sẵn tại châu Âu.
Thứ ba là đa dạng hóa thị trường xuất khẩu và nâng cao khả năng thích ứng với biến động toàn cầu. Theo Vasep, kết quả xuất khẩu năm nay dự kiến vượt 10 tỷ USD là nhờ đóng góp đáng kể từ các thị trường mới ngoài nhóm truyền thống, như khu vực Mỹ Latinh và châu Á. Việc mở rộng này giúp ngành thủy sản Việt Nam giảm phụ thuộc vào một vài thị trường chủ lực, tạo nền tảng vững chắc hơn trước các rủi ro thương mại và chính trị toàn cầu.
Thứ tư là minh bạch chuỗi sản xuất và tài chính. Đây được xem là yếu tố sống còn đối với doanh nghiệp xuất khẩu trong bối cảnh thế giới ngày càng chú trọng truy xuất nguồn gốc. Minh bạch không thể chỉ mang tính đối phó mà phải trở thành một phần trong quản trị doanh nghiệp. Các tổ chức quốc tế và đối tác nhập khẩu đều yêu cầu công khai dữ liệu về sản xuất, môi trường và tài chính. Đáp ứng tốt tiêu chí này sẽ giúp doanh nghiệp Việt nâng cao uy tín và hội nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng thủy sản toàn cầu.
Để nâng cao hiệu quả tận dụng FTA, Chính phủ đã giao Bộ Công Thương phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các hiệp hội triển khai xây dựng Hệ sinh thái tận dụng FTA. Tư duy của hệ sinh thái này chính là kết nối tất cả chủ thể có liên quan từ chuỗi giá trị, huy động được sự tập trung nguồn lực từ phía các bộ, ngành, hiệp hội. Trước mắt, Bộ Công Thương sẽ tập trung triển khai công tác hỗ trợ vào 6 ngành: Dệt may; da giày; thủy sản; cà phê; quế và điều. Theo đó, Hệ sinh thái tận dụng FTA cho ngành hàng thủy sản sẽ là cách tiệp cận mới, căn bản, quan trọng giúp doanh nghiệp xuất khẩu và toàn ngành thủy sản tận dụng tốt hơn ưu đãi từ các FTA để đẩy mạnh xuất khẩu.

