A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường trong nước cho ngành cơ khí

Thị trường trong nước được xác định là “bệ đỡ” quan trọng để sản phẩm cơ khí Việt vươn ra quốc tế, đặc biệt tận dụng cơ hội lớn khi nhu cầu thị trường của ngành này lên tới 310 tỷ USD vào năm 2030.

Chính sách mở đường, tạo thị trường cho cơ khí

Cơ khí là ngành công nghiệp nền tảng, phục vụ nhu cầu về máy móc, thiết bị, linh kiện cho nhiều ngành sản xuất. Do đó những năm qua, Bộ Công Thương cùng các bộ, ngành đã chủ động triển khai nhiều chính sách nhằm mở rộng thị trường trong nước, mở rộng dung lượng cho ngành cơ khí phát triển. Hàng loạt văn bản chiến lược, nghị quyết, quyết định quan trọng đã được ban hành, đặt mục tiêu phát triển dài hạn và gắn liền với nhu cầu thực tế.

Tiêu biểu là Quyết định 319/QĐ-TTg ngày 15/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn 2035. Văn bản này khẳng định cơ khí là ngành công nghiệp nền tảng, đồng thời nhấn mạnh việc gắn sản xuất cơ khí với dịch vụ, thương mại, thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ để doanh nghiệp chủ động tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Một trong những trọng tâm của chiến lược là kiến tạo thị trường cho doanh nghiệp cơ khí trong nước.

Chính phủ, Bộ Công Thương ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển ngành cơ khí

Cùng với đó, Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2022 về công nghiệp hóa, hiện đại hóa xác định ưu tiên phát triển cơ khí chế tạo cho sản xuất máy nông nghiệp, ô tô, tàu biển, thiết bị năng lượng, y tế… Đây là những lĩnh vực có dung lượng thị trường rất lớn trong nước, tạo ra cơ hội để doanh nghiệp cơ khí “cắm rễ” và phát triển lâu dài.

Trong thực tiễn, các chính sách này đã phát huy hiệu quả. Thông qua cơ chế ưu đãi thuế, đất đai, tín dụng từ Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ, nhiều doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư sản xuất linh kiện, khuôn mẫu, nhựa và cao su kỹ thuật. Nhờ đó, tỷ lệ nội địa hóa trong sản xuất xe máy đạt 85-95%; linh kiện kim loại cho ô tô đáp ứng 15-40% nhu cầu; đối với ngành đường sắt, doanh nghiệp trong nước có thể chế tạo toa xe với tỷ lệ nội địa hóa lên đến 60% nếu đơn hàng phù hợp.

Đặc biệt, các nghị quyết về phát triển đường sắt quốc gia (Nghị quyết 172/2024/QH15, Nghị quyết 187/2025/QH15, Nghị quyết 188/2025/QH15) đã đặt ra yêu cầu ưu tiên sử dụng sản phẩm cơ khí trong nước. Đây là bước đi mang ý nghĩa “tạo thị trường” rõ ràng, giúp doanh nghiệp Việt có cơ hội tham gia trực tiếp vào các dự án trọng điểm quốc gia với giá trị hàng chục tỷ USD.

Tại Hội thảo phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí Việt Nam gắn với việc sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước, phát triển hệ thống đường sắt Việt Nam ở Quảng Ninh do Bộ Công Thương phối hợp tổ chức vào tháng 3/2025, đại diện Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương cho rằng, Cục Công nghiệp đã, đang và sẽ nỗ lực hết sức để thúc đẩy toàn ngành công nghiệp nói chung và ngành cơ khí nói riêng, đặc biệt là cơ khí chế tạo cho sản xuất, lắp ráp ô tô và phát triển hệ thống đường sắt. Đồng thời, mong muốn tiếp tục nhận được sự hợp tác chặt chẽ từ các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên 9,7% và GDP trên 8% trong năm 2025.

Xúc tiến thương mại - chìa khóa mở rộng thị trường

Song song với cơ chế chính sách, công tác xúc tiến thương mại cũng được Bộ Công Thương đẩy mạnh, coi đây là công cụ quan trọng để mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp cơ khí. Các hội chợ, triển lãm, hội thảo trong và ngoài nước được tổ chức thường xuyên, tạo cơ hội kết nối giữa doanh nghiệp Việt với các tập đoàn đa quốc gia, cũng như mở rộng mạng lưới khách hàng trong nước.

Thực tế cho thấy, dù năng lực cạnh tranh còn hạn chế, nhưng nhiều doanh nghiệp cơ khí đã từng bước khẳng định chỗ đứng nhờ tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại. Một số sản phẩm đã trở thành đối tác cung ứng cho các “ông lớn” như Toyota, Thaco, Thành Công…, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ. Sự hiện diện của những doanh nghiệp này trong chuỗi cung ứng không chỉ giúp nâng tầm thương hiệu cơ khí Việt, mà còn góp phần ổn định thị trường trong nước, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu.

Thị trường trong nước được đánh giá còn nhiều tiềm năng cho sản phẩm cơ khí Việt khai thác

Tuy nhiên, khó khăn vẫn còn không ít khi ngành cơ khí mới đáp ứng chưa đến 30% giá trị nhu cầu thiết bị trong các lĩnh vực nhiệt điện, thủy điện, năng lượng tái tạo, xi măng… Sản phẩm của nhiều doanh nghiệp còn thiếu độ chính xác, giá thành cao, thiếu sức cạnh tranh. Trong khi đó, theo ông Nguyễn Đức Cường, Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Hà Nội, rào cản lớn là vốn đầu tư dài hạn, thủ tục tiếp cận chính sách còn phức tạp và tình trạng phụ thuộc nguyên liệu nhập khẩu khiến doanh nghiệp dễ bị động.

Đứng ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Văn Khánh, Phó Giám đốc Công ty TNHH Cơ khí Toàn Phát bày tỏ, dung lượng thị trường trong nước với sản phẩm cơ khí còn nhỏ, điều này khiến doanh nghiệp dù rất muốn đầu tư cho công nghệ, mở rộng sản xuất nhưng e ngại. “Ngành cơ khí rất đặc thù, vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi chậm, các quy chuẩn, tiêu chuẩn đòi hỏi cao, nếu thị trường trong nước không đủ lớn để "chống lưng", trước khi có thể tham gia vào thị trường xuất khẩu thì doanh nghiệp rất khó khăn”, ông Khánh cho hay.

Để khắc phục, các chuyên gia đều nhấn mạnh cần tiếp tục đẩy mạnh xúc tiến thương mại theo hướng thiết thực và đồng bộ hơn. Trước hết, các triển lãm trong nước và quốc tế phải được tổ chức thường niên, vào thời điểm cố định, có sự quảng bá rộng rãi để doanh nghiệp nắm bắt và tham gia. Bên cạnh đó, cần thông qua hiệp hội ngành nghề để khảo sát nhu cầu cụ thể, từ đó “xé nhỏ” chính sách hỗ trợ phù hợp với từng nhóm doanh nghiệp, thay vì áp dụng chung chung.

Một hướng đi quan trọng khác là gắn xúc tiến thương mại với các dự án công lớn. Ví dụ, theo Quy hoạch điện VIII, Việt Nam dự kiến đầu tư thêm 32.000 MW nhà máy điện khí và 23.000 MW điện gió đến năm 2045. Đây là thị trường thiết bị cơ khí có giá trị hơn 60 tỷ USD. Nếu nội địa hóa được 40%, doanh nghiệp cơ khí trong nước sẽ có cơ hội tiếp cận thị trường 24 tỷ USD, một con số không hề nhỏ.

Nhiều chuyên gia nhận định, điều cần nhất của doanh nghiệp cơ khí hiện nay là Nhà nước tạo ra thị trường, đặc biệt là những thị trường có dung lượng lớn như đường sắt đô thị, điện gió ngoài khơi hay các dự án năng lượng. Nếu bổ sung được cơ chế phù hợp, cơ khí Việt Nam chắc chắn có nhiều cơ hội thay đổi.

Cũng cần nhấn mạnh rằng, xúc tiến thương mại không chỉ dừng ở quảng bá hay kết nối, mà còn phải đi đôi với đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ nghiên cứu, phát triển (R&D), ứng dụng công nghệ mới và chuẩn hóa quy trình sản xuất. Đây chính là nền tảng để sản phẩm cơ khí Việt đủ sức cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu khắt khe của thị trường trong nước và quốc tế.

Ngành cơ khí Việt Nam đang có dư địa thị trường trong nước vô cùng lớn, từ ô tô, xe máy, đường sắt, đến năng lượng, xây dựng và vật liệu. Với nhu cầu 310 tỷ USD đến năm 2030, đây không chỉ là cơ hội, mà còn là “bài kiểm tra” năng lực của doanh nghiệp cơ khí nội địa. Chính sách của Đảng, Nhà nước và Bộ Công Thương trong thời gian qua đã “mở đường” và tạo ra thị trường. Song để tận dụng cơ hội, doanh nghiệp phải chủ động nâng cấp công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm, đầu tư cho nghiên cứu và xúc tiến thương mại.

Thị trường trong nước, nếu được khai thác hiệu quả, sẽ là nền tảng tốt thúc đẩy sự phát triển của ngành cơ khí Việt Nam, giúp ngành này không chỉ đứng vững trong nước mà còn vươn xa trên thị trường quốc tế.

 


Tin liên quan

Tin nổi bật

Liên kết website