A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Ứng dụng công nghệ sạch: 'Chìa khóa' loại bỏ các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy POP

Theo PGS. TS Bùi Thị An, bên cạnh việc phải nhận thức đầy đủ nguy cơ từ các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy POP, thì các doanh nghiệp cần sàng đầu tư công nghệ sạch, hiện đại để giảm phát thải, tránh nguy cơ ô nhiễm môi trường từ các ngành công nghiệp.

Có thể thấy, thách thức lớn nhất của công nghiệp Việt Nam trong tiến trình giảm phát thải khí nhà kính chính là việc thoát khỏi sự phụ thuộc quá lớn vào nhiên liệu hóa thạch. Đặc biệt là ngành công nghiệp nặng tiêu thụ nhiều năng lượng như xi măng, luyện kim, hóa chất, sắt thép.

Trong khi đó, thế giới đang đẩy mạnh chuyển đổi xanh, giảm dần sử dụng năng lượng hóa thạch. Vì thế, giảm phát thải khí nhà kính, hay loại bỏ chất chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy (POP) đang là thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của công nghiệp Việt Nam.

Đặc biệt, trong bối cảnh quá trình chuyển đổi, thì vấn đề chi phí tài chính rất cao, đặc biệt là vốn đầu tư ban đầu. Không phải doanh nghiệp nào cũng có đủ năng lực, thiết bị, công nghệ để thực hiện. Và quan trọng hơn, nhận thức của doanh nghiệp về mức độ nguy hại của các loại phát thải này chưa đồng đều.

PGS.TS Bùi Thị An, nguyên Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Viện trưởng Viện Tài nguyên Môi trường và Phát triển cộng đồng đã trao đổi xoay quay vấn đề này:

- Thưa bà, đâu là thách thức lớn nhất đối với ngành công nghiệp Việt Nam trong việc giảm phát thải khí nhà kính theo chuẩn mực quốc tế?

PGS.TS Bùi Thị An: Phải nói rằng thách thức lớn nhất đối với ngành công nghiệp Việt Nam trong quá trình giảm phát thải khí nhà kính chính là việc trước đây, gần như tất cả các ngành công nghiệp nặng đều sử dụng nhiên liệu hóa thạch. Ví dụ như công nghiệp xi măng, luyện kim, hóa chất... Việc giảm dần sử dụng nhiên liệu hóa thạch là một thách thức cực kỳ lớn. Trong quá trình chuyển đổi, vấn đề đặt ra là chi phí tài chính rất cao, đặc biệt là vốn đầu tư ban đầu. Nếu muốn giảm phát thải ngay thì đòi hỏi nguồn vốn đầu tư khổng lồ, và khi đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm, làm suy giảm khả năng cạnh tranh.

Tôi cho rằng đây là thách thức lớn nhất đối với nền công nghiệp Việt Nam, đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay, vốn chủ yếu dựa trên các ngành công nghiệp nặng. Những ngành này hiện vẫn sử dụng nhiều nguồn năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch. Mà nhiên liệu hóa thạch thì phát thải ra môi trường rất lớn, gây báo động về ô nhiễm, đặc biệt là khí thải nhà kính. Do đó, đây là bài toán lớn đặt ra không chỉ cho các nhà lãnh đạo mà còn cho cả cộng đồng doanh nghiệp: Làm thế nào để chuyển đổi hiệu quả?

- Thưa bà, hiện nay Việt Nam đã có hành lang pháp lý đầy đủ để kiểm soát và loại bỏ các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy POP hay chưa?

PGS.TS Bùi Thị An: Hiện nay, Việt Nam đã có khung pháp lý. Chúng ta tham gia Công ước Stockholm, trong đó quy định rõ danh mục các chất thải nguy hại, chất thải độc hại loại một, loại hai, loại ba. Với chất thải nguy hại, bắt buộc phải công bố, và Việt Nam đã thực hiện. Ví dụ như các chất thải khó phân hủy (POP, UPOP) trước đây đã công bố trong danh mục này. Tuy nhiên, phải nói rằng từ lý thuyết đến thực tiễn còn nhiều khó khăn, bởi việc đo đạc, kiểm đếm vô cùng phức tạp.

Để thực hiện cần thiết bị hiện đại, trong khi nhận thức về cấm phát thải chất thải nguy hại khó phân hủy ở các doanh nghiệp chưa đồng đều. Một số doanh nghiệp lớn, khi xuất khẩu sang thị trường quốc tế, phải đáp ứng yêu cầu rất ngặt nghèo về sản phẩm và truy xuất nguồn gốc. Các doanh nghiệp FDI cũng tuân thủ nhiều hơn. Nhưng phần lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước chưa nhận thức đầy đủ, do hạn chế về năng lực và tài chính.

PGS.TS Bùi Thị An cho rằng doanh nghiệp cần nhận thức đầy đủ về các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy POP

Tôi cho rằng Nhà nước cần có giải pháp hỗ trợ để tất cả doanh nghiệp đều có điều kiện tiếp cận công nghệ sạch, công nghệ hiện đại, qua đó giảm thiểu phát thải, đặc biệt là những loại khí thải khó phân hủy.

- Thưa bà, công tác kiểm kê phát thải POP từ các ngành công nghiệp hiện nay có những điểm tích cực gì?

PGS.TS Bùi Thị An: Về công tác kiểm kê phát thải từ các ngành công nghiệp, hiện nay đã có một số điểm tích cực. Chúng ta đã thực hiện đo đạc định kỳ, yêu cầu lập danh mục kiểm kê tại từng doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn như luyện kim, xi măng, sắt thép. Tuy nhiên, Nhà nước cần đầu tư thêm thiết bị, tăng mật độ đo đạc. Khi có số liệu chính xác, dữ liệu đó mới thực sự có giá trị làm cơ sở đầu vào cho các chủ trương, chính sách của Nhà nước.

Một điểm quan trọng khác là lựa chọn công nghệ. Công nghệ lạc hậu là nguồn phát thải lớn. Do đó, trong kiểm kê và xử lý số liệu, rất cần thiết bị hiện đại, chuẩn xác, nhạy bén. Thời đại công nghệ số hiện nay đã có nhiều thiết bị tiên tiến trên thế giới, vấn đề là phải dành nguồn lực để đầu tư. Nhà nước có thể hỗ trợ các doanh nghiệp lớn hoặc yêu cầu họ trích kinh phí mua thiết bị. Có như vậy, số liệu phát thải mới chính xác, làm cơ sở khoa học cho hoạch định chính sách môi trường.

- Từ góc độ chuyên gia, bà có cho rằng doanh nghiệp đã nhận thức đúng và đủ về tác hại của POP và trách nhiệm giảm phát thải nhà kính hay chưa?

PGS.TS Bùi Thị An: Về nhận thức của doanh nghiệp đối với phát thải nguy hại và khó phân hủy, tôi cho rằng chỉ một bộ phận doanh nghiệp lớn đã nhận thức đầy đủ. Nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu sang châu Âu, Mỹ, nơi yêu cầu sản phẩm rất cao; hoặc các doanh nghiệp FDI vốn quen với tiêu chuẩn nghiêm ngặt tại nước họ. Những doanh nghiệp này hiểu rõ phát thải độc hại gây ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng sức khỏe cộng đồng, gây ung thư, bệnh tật, ảnh hưởng đến an sinh xã hội. Do đó, họ có trách nhiệm và sẵn sàng đầu tư công nghệ sạch, hiện đại để giảm phát thải.

Ngược lại, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước gặp khó khăn về tài chính và chưa nhận thức rõ mức độ nguy hại. Họ chủ yếu bán sản phẩm trong nội địa, nơi chưa có yêu cầu ngặt nghèo về tiêu chuẩn. Đây là vấn đề lớn. Do đó, Nhà nước cần tiếp tục làm việc, tuyên truyền để nâng cao nhận thức và đồng thời có chính sách hỗ trợ để họ có thể thực hiện trách nhiệm xã hội.

Các ngành công nghiệp đang đặt ra vấn đề loại bỏ các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy POP. Ảnh minh họa

- Thưa bà, bà có khuyến nghị gì đối với doanh nghiệp, về việc áp dụng công nghệ sạch nhằm giảm phát thải các chất ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy POP trong sản xuất?

PGS.TS Bùi Thị An: Doanh nghiệp cần thay đổi tư duy trong sản xuất để đáp ứng yêu cầu giảm phát thải. Trước hết, nếu áp dụng công nghệ sạch, sản phẩm của họ xuất khẩu sẽ không bị trả lại hay bị phạt. Đây là lợi thế vô cùng quan trọng, giúp doanh nghiệp tránh thiệt hại lớn về kinh tế. Không chỉ vậy, điều này còn nâng cao uy tín và thương hiệu doanh nghiệp, tạo điều kiện để tăng trưởng bền vững.

Doanh nghiệp luôn đặt lợi nhuận lên hàng đầu. Muốn có lợi nhuận, phải bảo đảm thương hiệu và chất lượng sản phẩm. Khi đáp ứng yêu cầu giảm phát thải, họ vừa được lợi về kinh tế, vừa nâng cao thương hiệu. Đó là lợi ích kép. Xu hướng hiện nay, nhất là các doanh nghiệp từ quy mô trung bình trở lên, đang chuyển hướng sản xuất sạch, sử dụng công nghệ hiện đại, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải tối đa.

Ngoài ra, khi thị trường tín chỉ carbon hình thành, doanh nghiệp giảm phát thải nhiều sẽ được hưởng lợi. Như vậy, lợi ích không chỉ về kinh tế, thương hiệu, mà còn về uy tín trên thương trường.

Ngược lại, doanh nghiệp nào không thay đổi sẽ chịu thua thiệt. Có thể đến mức sản phẩm không bán được, vì thị trường ngày càng khắt khe và người tiêu dùng ngày càng có nhận thức đầy đủ hơn. Khi đó, doanh nghiệp sẽ rơi vào bế tắc.

Xin cảm ơn bà đã chia sẻ!


Tác giả: Ngọc Tiến

Tin liên quan

Tin nổi bật

Liên kết website