Cơ hội nâng cao hiệu qủa sử dụng năng lượng từ dự án CASE Việt Nam
Dự án CASE Việt Nam được kỳ vọng sẽ mở rộng hành lang đổi mới cho sử dụng năng lượng hiệu quả.
Các bộ ngành chung tay
Mới đây, Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức (GIZ) và Cục Đổi mới sáng tạo (SATI – Bộ KH&CN) đã thực hiện trao đổi Thỏa thuận triển khai Dự án “Năng lượng sạch, chi phí hợp lý và an ninh năng lượng cho các quốc gia Đông Nam Á thực hiện tại Việt Nam” (CASE Việt Nam).
Điều này đã mở ra một giai đoạn hợp tác mới trong lĩnh vực năng lượng giữa Việt Nam và Đức trong đó vấn đề sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả là một lĩnh vực quan của quá trình chuyển dịch năng lượng.
Theo đó, Dự án CASE hướng tới hỗ trợ Việt Nam xây dựng hệ thống năng lượng bền vững, đáng tin cậy, chi phí hợp lý, đồng thời góp phần hiện thực hóa các cam kết trong Thỏa thuận Paris.
Dự án CASE Việt Nam được triển khai qua bốn hợp phần: (1) Nghiên cứu đổi mới sáng tạo trong NLTT; (2) Tăng cường năng lực nghiên cứu ứng dụng, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo; (3) Xúc tiến chuyển giao công nghệ; và (4) Các hoạt động hỗ trợ khác. Mỗi hợp phần đều gắn trực tiếp với yêu cầu nâng cao hiệu suất sử dụng năng lượng trên quy mô hệ thống – từ đưa công nghệ hiệu quả hơn vào lưới và nguồn, đến hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng giải pháp tiết kiệm năng lượng trong sản xuất – dịch vụ. Chính phủ Đức ủy thác cho GIZ quản lý, còn SATI đóng vai trò chủ dự án và tiếp nhận hỗ trợ kỹ thuật, bảo đảm tính phối hợp chính sách, khoa học, doanh nghiệp trong suốt quá trình triển khai.
Từ góc độ người sử dụng cuối cùng, “bền vững – đáng tin cậy – hợp lý” chỉ trở thành hiện thực khi mỗi kilowatt giờ được tiêu thụ hiệu quả hơn, từ nhà máy đến hộ gia đình, từ doanh nghiệp sản xuất đến dịch vụ đô thị. Chính vì vậy, thiết kế của dự án chú trọng xây dựng cơ sở khoa học – thực tiễn để thúc đẩy chuyển giao, phát triển công nghệ và đổi mới sáng tạo; đánh giá năng lực công nghệ của doanh nghiệp, viện – trường; kết nối nghiên cứu với thị trường; và dự báo nhu cầu nhân lực cho tiến trình chuyển dịch. Những cấu phần này tạo nền móng cho một chương trình hành động mà ở đó, năng lượng tiết kiệm – hiệu quả không chỉ là khẩu hiệu, mà là tiêu chí vận hành của hệ sinh thái.
Ông Nguyễn Mai Dương, Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, nhấn mạnh Bộ KH&CN đang thúc đẩy chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, tăng cường nghiên cứu – chuyển giao công nghệ năng lượng sạch, kết nối viện – trường – doanh nghiệp, phát triển thị trường KH&CN và nâng cao năng lực nội địa hóa công nghệ NLTT. Với trọng tâm “doanh nghiệp ở trung tâm”, các sáng kiến tiết kiệm – hiệu quả như tối ưu dây chuyền, số hóa vận hành, chuẩn hóa quản trị năng lượng ISO… sẽ có thêm bệ đỡ chính sách và kỹ thuật để đi vào thực tiễn. “Dự án CASE Việt Nam sẽ góp phần hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu trong lĩnh vực năng lượng sạch,” ông khẳng định.
Nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng
Tại COP26, Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050 – thách thức lớn, nhưng cũng là cơ hội để tái định hình mô hình phát triển theo hướng xanh. Để rút ngắn quãng đường đến Net Zero, bên cạnh tăng nhanh nguồn năng lượng sạch, quản trị nhu cầu (DSM) và sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả là “lối đi ngắn nhất” nhằm giảm áp lực đầu tư, hạ chi phí hệ thống và nâng độ tin cậy cung ứng. CASE Việt Nam vì thế được kỳ vọng củng cố nền tảng khoa học – công nghệ, thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo năng lượng sạch, mở rộng hợp tác quốc tế và chuyển các cam kết thành hành động cụ thể.
Ở cấp vĩ mô, hiệu quả năng lượng giúp giảm nhu cầu đỉnh, nhờ đó giảm chi phí đầu tư nguồn – lưới, nâng độ an ninh năng lượng và tạo không gian tài khóa cho các dịch vụ thiết yếu khác. Ở cấp doanh nghiệp, hiệu suất cao kéo theo hạ giá thành, giảm rủi ro giá năng lượng, nâng năng lực cạnh tranh xuất khẩu. Ở cấp hộ gia đình – đô thị, thiết bị hiệu suất cao và tòa nhà thông minh hỗ trợ tiết kiệm chi tiêu, đồng thời giảm phát thải. Dự án CASE, với cấu trúc “khoa học – công nghệ – đổi mới – chuyển giao”, tạo hành lang thử nghiệm chính sách – công nghệ để các lợi ích này lan tỏa rộng hơn, không chỉ ở nguồn NLTT mà trong toàn bộ cách chúng ta tiêu thụ năng lượng.
Trao đổi thoả thuận thực hiện Dự án CASE Việt Nam. Ảnh GIZ
Ông Sascha Hocke, Phó Giám đốc quốc gia GIZ tại Việt Nam nhìn nhận công nghệ và đổi mới sáng tạo là trọng tâm của chuyển dịch năng lượng. Kinh nghiệm từ Đức cho thấy, chính sách cộng với nghiên cứu, hợp tác chính phủ và doanh nghiệp có thể mở ra ngành công nghiệp mới, việc làm mới và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng.
Đặc biệt với 2 Nghị quyết quan trọng là Nghị quyết 57 và Nghị quyết 70 Việt Nam đã có nền tảng thể chế để biến hiệu quả năng lượng thành lợi thế cạnh tranh, từ thiết kế thiết bị, vật liệu, đến dịch vụ kỹ thuật và mô hình kinh doanh mới.
Bà Vũ Chi Mai, Giám đốc Dự án CASE Việt Nam cho biết, giai đoạn triển khai sẽ kết nối các đơn vị trong nước với tổ chức quốc tế trong R&D công nghệ, nghiên cứu về chỉ số đổi mới sáng tạo trong ngành NLTT, và đánh giá năng lực tài chính – hạ tầng của doanh nghiệp Việt Nam trong cung cấp thiết bị, dịch vụ NLTT. Từ góc nhìn hiệu quả, ba hướng đi này tương ứng với: (i) kết nối để đưa giải pháp tiết kiệm – hiệu quả vào đúng “điểm nghẽn” của sản xuất và tiêu dùng; (ii) đo lường để biết khoản đầu tư nào mang lại lợi ích năng lượng – kinh tế tốt nhất; (iii) nội địa hóa để giảm chi phí vòng đời, tăng tính sẵn có và chủ động kỹ thuật. Mục tiêu cuối cùng là chuyển dịch năng lượng công bằng và hiệu quả, nơi người dân và doanh nghiệp đều được hưởng lợi từ hóa đơn năng lượng thấp hơn và chất lượng cung ứng cao hơn.
Việc ký kết và triển khai CASE Việt Nam là một hợp phần quan trọng trong hợp tác năng lượng và đổi mới sáng tạo giữa Việt Nam và Đức. Hơn một thỏa thuận kỹ thuật, đây còn là minh chứng cho quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài và tin cậy của hai quốc gia, hướng tới kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Đức vào tháng 10/2025. |