Doanh nghiệp nông sản "đi đường dài" với C/O ưu đãi
Tận dụng tốt C/O ưu đãi trong xuất khẩu với nhiều doanh nghiệp là kết quả của quá trình chuẩn hoá sản xuất, kiểm soát nguyên liệu và kiên trì theo đuổi các chuẩn mực chất lượng khắt khe để đi đường dài trên thị trường quốc tế.
Chuẩn hoá quy trình để đi cùng ưu đãi
Trong 11 tháng đầu năm 2025, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông lâm thủy sản đạt trên 64 tỷ USD, tăng gần 13% so với cùng kỳ năm trước; xuất siêu đạt 19,55 tỷ USD, tăng 19%. Ước cả năm 2025, kim ngạch toàn ngành xấp xỉ 70 tỷ USD, xuất siêu khoảng 21 tỷ USD, vượt mục tiêu đề ra. Những con số này cho thấy sức bền đáng kể của khu vực nông nghiệp trong bối cảnh biến động khí hậu, thiên tai và thị trường thế giới nhiều bất ổn.
Đáng chú ý, nông nghiệp vẫn duy trì mức tăng trưởng khoảng 4% trong nhiều năm qua, riêng năm 2025 dự kiến đóng góp khoảng 5,5% vào tăng trưởng GDP cả nước. Trong bức tranh đó, việc tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA), đặc biệt thông qua C/O ưu đãi, đang trở thành “thước đo” năng lực thực chất của doanh nghiệp nông sản.

Nông sản Việt ngày một được ưa chuộng trên thị trường. Ảnh minh hoạ
Thực tế cho thấy, không ít doanh nghiệp từng coi C/O chỉ là “tấm giấy thông hành” để hưởng thuế suất thấp hơn. Nhưng khi các thị trường lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản siết chặt yêu cầu về truy xuất nguồn gốc, dư lượng hoá chất, tính bền vững của chuỗi cung ứng, cách nghĩ này nhanh chóng bộc lộ hạn chế. Muốn có C/O ưu đãi, doanh nghiệp buộc phải làm lại từ gốc.
Chia sẻ với phóng viên, bà Trần Thị Ngọc Dung - Đại diện Công ty Cổ phần Đầu tư Dừa Bến Tre nhìn nhận khá rõ điều này khi cho biết, đến cuối năm 2025, doanh nghiệp đã xuất khẩu sản phẩm dừa sang hơn 65 quốc gia, trải rộng từ châu Âu, châu Á, châu Mỹ đến Trung Đông. Đằng sau con số đó là nỗ lực không ngừng nghỉ chuẩn hoá từng khâu trong chuỗi sản xuất. “Điều quan trọng nhất khi làm C/O là phải chứng minh được nguồn gốc sản phẩm đáp ứng đúng quy định. Khi mình làm được điều đó một cách bài bản, thì việc cấp C/O cho từng thị trường không còn là trở ngại”, bà Dung nhấn mạnh.
Với đặc thù là sản phẩm thực phẩm, yêu cầu về dư lượng hoá chất, an toàn vệ sinh và truy xuất nguồn gốc luôn ở mức cao. Doanh nghiệp lựa chọn hướng đi khá căn cơ: Mở rộng vùng nguyên liệu organic, đầu tư máy móc chế biến sâu, đồng thời chuẩn hoá quy trình kiểm soát chất lượng từ nông trại đến nhà máy. “Hiện tại, vùng nguyên liệu organic của công ty đang được mở rộng và phấn đấu đạt mục tiêu 10.000 ha trong giai đoạn 2025 - 2026. Trong hành trình đó, doanh nghiệp buộc phải liên kết chặt chẽ với nông dân, hỗ trợ kỹ thuật canh tác và có chính sách thu mua phù hợp”, bà Dung cho biết.
Việc chủ động nguồn nguyên liệu không chỉ giúp doanh nghiệp đáp ứng tiêu chí xuất xứ để được cấp C/O từ các hiệp định Thương mại tự do mà còn là nền tảng để bảo đảm tính minh bạchlà yếu tố ngày càng được các nhà nhập khẩu coi trọng.
Kiểm soát dư lượng, đảm bảo truy xuất nguồn gốc
Câu chuyện của Công ty cổ phần Dừa Bến Tre cũng phản ánh xu hướng chung của nhiều doanh nghiệp nông sản khác, đặc biệt trong lĩnh vực lúa gạo. Đại diện một doanh nghiệp lương thực tại Đồng bằng sông Cửu Long thẳng thắn thừa nhận, để đưa hàng vào các thị trường cao cấp như châu Âu hay Nhật Bản, khâu khó nhất không phải là thủ tục, mà là kiểm soát vùng trồng.
“Muốn vào thị trường khó tính thì phải có vùng trồng, phải kiểm soát được ngay từ khâu trồng. Nếu thu mua lúa hàng hoá bên ngoài, rất dễ vướng dư lượng thuốc bảo vệ thực vật không đạt chuẩn”, vị này chia sẻ. Theo ông, nhiều nông dân vẫn có thói quen lạm dụng hoá chất để tăng năng suất, trong khi các thị trường cao cấp lại ưu tiên sản phẩm có dư lượng thấp, thậm chí bằng không.

Chủ động nguyên liệu, đảm bảo chất lượng hàng hoá giúp doanh nghiệp nông sản trong nước tăng tận dụng C/O ưu đãi. Ảnh minh hoạ
Hệ quả là doanh nghiệp buộc phải “đo ni đóng giày” từng vùng nguyên liệu, bao tiêu ngay từ đầu, chấp nhận năng suất thấp hơn và giá thành cao hơn. Đây cũng chính là lý do khiến không ít doanh nghiệp ngần ngại khi mở rộng sang các thị trường khó tính, dù các hiệp định thương mại tự do mang lại ưu đãi thuế quan rất hấp dẫn.
Ở góc độ C/O, sự khác biệt giữa các thị trường càng làm bài toán thêm phức tạp. Có thị trường yêu cầu chặt chẽ về xuất xứ và dư lượng, có thị trường lại “dễ thở” hơn. Nhưng xu hướng chung, theo các doanh nghiệp, là các yêu cầu đang ngày càng tiệm cận nhau theo hướng minh bạch và bền vững. Khi đó, việc chuẩn hoá một lần cho nhiều thị trường trở thành lựa chọn bắt buộc, thay vì làm theo kiểu “đối phó” từng đơn hàng.
Bà Trần Thị Ngọc Dung cũng cho hay, doanh nghiệp hiện tận dụng mạnh các C/O ưu đãi, đặc biệt là EVFTA với thị trường châu Âu và Form E với Trung Quốc. “Chúng tôi chưa ghi nhận khó khăn lớn trong quá trình làm C/O, bởi bộ phận xuất nhập khẩu và QA/QC luôn phối hợp rất chặt chẽ. Quan trọng là dữ liệu về vùng nguyên liệu, quy trình sản xuất, kiểm soát chất lượng đã được chuẩn hoá ngay từ đầu”, bà nói.
Nhìn rộng hơn, mục tiêu xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 100 tỷ USD trong những năm tới sẽ khó thành hiện thực nếu nông sản Việt vẫn tập trung vào sản lượng. C/O ưu đãi chỉ thực sự phát huy giá trị khi gắn với một hệ sinh thái sản xuất minh bạch, có trách nhiệm và bền vững. Và việc các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nông sản nỗ lực xây dựng vùng trồng, kiểm soát dư lượng, chuẩn hoá quy trình, có thể chưa tăng trưởng ngay trong ngắn hạn. Nhưng chính cách làm này đang tạo ra nền tảng vững chắc để nông sản Việt không chỉ đi xa hơn, mà còn đi lâu hơn trên thị trường toàn cầu.

