A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Kiểm soát phát thải bằng công nghệ hiện đại: 'Chìa khóa' bền vững cho nhiệt điện

Việc phát triển nhiệt điện đặt ra bài toán áp lực kép vừa phải đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng cao, vừa phải kiểm soát chặt chẽ phát thải để tránh gây tổn hại tới môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Công nghệ là trụ cột xanh hóa nhiệt điện

Nhiệt điện than vẫn giữ vai trò chủ lực trong hệ thống điện quốc gia, cung cấp nguồn điện ổn định phục vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, đi cùng với đó là áp lực kép vừa phải đáp ứng nhu cầu năng lượng ngày càng cao, vừa phải kiểm soát chặt chẽ phát thải để tránh gây tổn hại tới môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Trong bối cảnh Việt Nam đã đưa ra cam kết mạnh mẽ tại COP26 về đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, việc kiểm soát khí thải bằng công nghệ hiện đại trở thành chìa khóa để ngành nhiệt điện tồn tại và phát triển bền vững. Những mô hình thực tiễn tại Nhiệt điện Nghi Sơn (Thanh Hóa), Nhiệt điện Duyên Hải (Trà Vinh) và Nhiệt điện Cao Ngạn và An Khánh (Thái Nguyên) đã minh chứng rõ ràng cho xu thế tất yếu này.

Nhiệt điện Nghi Sơn được đầu tư khoảng 24.000 tỷ đồng với dây chuyền sản xuất hiện đại, áp dụng công nghệ tiên tiến của các nước G7. Nhà máy lắp đặt hệ thống lọc bụi tĩnh điện (ESP) đạt hiệu suất trên 99,7%, bảo đảm nồng độ bụi phát thải chỉ 170 mg/Nm³, thấp hơn nhiều so với quy chuẩn Việt Nam (QCVN 22:2009/BTNMT).

Hệ thống khử lưu huỳnh (FGD) sử dụng công nghệ Nhật Bản cho hiệu suất trên 9,4%, giúp khí thải SO₂ duy trì ở mức nhỏ hơn 425 mg/Nm³. Nước thải sau xử lý được tái sử dụng cho các mục đích nội bộ như làm ẩm tro xỉ, hướng tới mục tiêu tuần hoàn 100%. Đây là minh chứng rõ ràng cho hiệu quả của công nghệ trong việc giảm thiểu phát thải và tiết kiệm tài nguyên.

Nhà máy Nhiệt điện Cao Ngạn hoạt động luôn đảm bảo nồng độ bụi trong khói thải nằm trong giới hạn quy chuẩn.

Tại Thái Nguyên, hai nhà máy Cao Ngạn và An Khánh cùng vận hành hệ thống ESP chia bốn trường độc lập, đạt hiệu suất tới 99,8%, đảm bảo nồng độ bụi trong khói thải nằm trong giới hạn quy chuẩn. Điểm đáng chú ý là hệ thống này được vận hành liên tục, kết hợp với quan trắc tự động và kiểm tra định kỳ, giúp đảm bảo chất lượng khí thải ổn định, không gây tác động tiêu cực đến môi trường xung quanh.

Người lao động mô tả nơi làm việc “như một khu sinh thái”, với cây xanh dọc hàng rào, hồ cá, bể cảnh trong khuôn viên, minh chứng rằng kiểm soát phát thải không chỉ mang lại lợi ích môi trường, mà còn cải thiện điều kiện lao động.

Khác với hai nhà máy phía Bắc và miền Trung, điểm sáng của Duyên Hải nằm ở quản lý tro xỉ. Nhà máy đã đầu tư hệ thống vận chuyển tro bay bằng khí nén qua đường ống đến silo chứa, sau đó chuyển vào xe bồn kín hoặc ống kín ra cảng để bốc xếp lên tàu/sà lan có khoang kín. Cách làm này loại bỏ nguy cơ bụi phát tán trong quá trình vận chuyển, một khâu vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro ô nhiễm.

Đặc biệt, Duyên Hải đã đạt tỷ lệ tiêu thụ tro xỉ trên 99%, xử lý hơn 180.000 tấn tồn kho chỉ trong những tháng đầu 2025. Thành công này biến “gánh nặng chất thải” thành “nguồn lực cho kinh tế tuần hoàn”.

Ông Âu Nguyễn Đình Thảo, Phó Giám đốc Công ty Nhiệt điện Duyên Hải cho biết: Trong bối cảnh sản xuất nhiệt điện than còn nhiều áp lực, Nhiệt điện Duyên Hải xác định phát triển phải song hành cùng bảo vệ môi trường. Hệ thống quan trắc khí thải, nước thải được đầu tư đồng bộ, truyền dữ liệu trực tuyến đến các cơ quan quản lý chuyên ngành, bảo đảm giám sát minh bạch và đáp ứng quy chuẩn pháp luật.

Có thể thấy, điểm chung nổi bật của ba nhà máy là minh bạch trong giám sát phát thải. Tại Nghi Sơn, toàn bộ thông số phát thải được truyền trực tuyến về Sở Tài nguyên và Môi trường, đồng thời công khai tại cổng nhà máy để người dân giám sát. Đây là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng niềm tin với cộng đồng.

Về lộ trình tương lai, cả Nghi Sơn và Duyên Hải đều đã chủ động xây dựng kế hoạch nâng cấp công nghệ để đáp ứng QCVN 19:2024/BTNMT có hiệu lực từ 1/7/2025 và hoàn thành trước năm 2031. Việc không chờ đến khi quy chuẩn có hiệu lực mới hành động cho thấy tư duy “đi trước một bước” trong quản trị môi trường.

Khi môi trường gắn với văn hóa doanh nghiệp

Nếu công nghệ là “xương sống”, thì văn hóa môi trường chính là “tinh thần” của nhà máy. Nghi Sơn đã phủ xanh 30% diện tích, tạo lá chắn bụi tự nhiên và cải thiện vi khí hậu khu vực xung quanh.

Nhiệt điện Cao Ngạn và An Khánh đều chú trọng trồng cây dọc hàng rào, che phủ bãi xỉ, tách biệt khu xử lý nước thải. Công nhân mô tả không gian làm việc thoáng đãng, sạch sẽ, mang lại cảm giác “đi làm như đi vào công viên”.

Ông Ngô Như Cường, cán bộ kỹ thuật an toàn, Công ty Nhiệt điện Cao Ngạn - TKV cho biết: “Trung bình mỗi năm, với sản lượng hơn 750 triệu kWh, công ty phát sinh gần 200 nghìn tấn tro xỉ. Việc xử lý và vận chuyển khối lượng này phải được thực hiện nghiêm ngặt, tuân thủ đầy đủ quy định về bảo vệ môi trường như rửa sạch xe trước khi rời công ty, che phủ bạt, gắn biển chở chất thải. Các đơn vị vận chuyển đều phải ký cam kết không gây ô nhiễm trong quá trình vận chuyển”.

Bên cạnh đó, Duyên Hải trồng hơn 15.000 cây xanh, biến khuôn viên nhà máy thành “lá phổi nhỏ” giữa trung tâm nhiệt điện lớn nhất khu vực Nam Bộ. 

Ông Âu Nguyễn Đình Thảo, Phó Giám đốc Công ty Nhiệt điện Duyên Hải cho biết: Trong bối cảnh sản xuất nhiệt điện than còn nhiều áp lực, Nhiệt điện Duyên Hải xác định phát triển phải song hành cùng bảo vệ môi trường. Hệ thống quan trắc khí thải, nước thải được đầu tư đồng bộ, truyền dữ liệu trực tuyến đến các cơ quan quản lý chuyên ngành, bảo đảm giám sát minh bạch và đáp ứng quy chuẩn pháp luật.

Trung tâm điều hành hiện đại của Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải. Ảnh: Võ Minh Khương

Những nỗ lực này cho thấy kiểm soát khí thải không chỉ dừng ở ống khói, mà còn mở rộng sang kiến tạo cảnh quan xanh, xây dựng mối quan hệ hài hòa với cộng đồng dân cư.

Đặc biệt, các đơn vị này đã ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn tro xỉ, biến từ gánh nặng thành tài nguyên. Duyên Hải tiêu thụ trên 99% tro xỉ, xử lý triệt để tồn kho, đồng thời kiến nghị hoàn thiện hành lang pháp lý về chỉ số phóng xạ để mở rộng thị trường.

Tại Cao Ngạn, trung bình mỗi năm phát sinh gần 200 nghìn tấn tro xỉ, được xử lý, nghiền sàng, đưa vào sản xuất xi măng, gạch và san lấp mặt bằng. Toàn bộ phương tiện vận chuyển phải tuân thủ quy định chặt chẽ là che phủ, rửa sạch, gắn biển chở chất thải.

Nghi Sơn song song với kiểm soát khí thải, cũng đẩy mạnh tiêu thụ tro xỉ nhằm giảm áp lực chất thải và đáp ứng yêu cầu bảo vệ môi trường.

Việc kết nối giữa khoa học công nghệ tiêu chuẩn pháp lý, thị trường vật liệu xây dựng chính là chìa khóa để tro xỉ trở thành nguồn lực phát triển thay vì gánh nặng môi trường.

Những kinh nghiệm từ Nghi Sơn, Duyên Hải, Cao Ngạn – An Khánh cho thấy, nhiệt điện hoàn toàn có thể vận hành bền vững nếu biết kết hợp công nghệ hiện đại với quản trị minh bạch và kinh tế tuần hoàn.

“Xanh hóa” không chỉ là một khẩu hiệu chính trị, mà là tấm vé duy nhất để ngành nhiệt điện tồn tại trong bối cảnh mới. Từ việc đạt quy chuẩn, ngành cần tiến thêm bước nữa: dẫn dắt chuẩn mực xanh, biến áp lực môi trường thành động lực đổi mới.

Khi biết năm bắt và ứng dụng công nghệ, nhiệt điện sẽ không còn là nỗi lo ô nhiễm, mà trở thành một mắt xích quan trọng trong chiến lược năng lượng sạch, an toàn và bền vững của Việt Nam.


Tác giả: Khôi Nguyên

Tin liên quan

Tin nổi bật

Liên kết website