Xuất xứ hàng hóa và rủi ro 'vạ lây' từ phòng vệ thương mại
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và Việt Nam đã ký kết và thực thi hàng loạt Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, xuất xứ hàng hóa trở thành “tấm vé” để hàng Việt hưởng ưu đãi thuế quan. Đây cũng là tiêu chí phản ánh năng lực quản trị, mức độ minh bạch, sức cạnh tranh thực chất của doanh nghiệp. Theo các chuyên gia cảnh báo, nếu không kiểm soát chặt xuất xứ, các biện pháp phòng vệ thương mại sẽ khiến doanh nghiệp làm ăn chân chính bị "vạ lây".
Cần trọng xuất xứ, nâng sức cạnh tranh hàng Việt
Luật sư Nguyễn Thanh Hà - Chủ tịch Hãng luật SBLAW (SBLAW Vietnam International Law Firm), người có nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thương mại quốc tế đánh giá, các ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội lớn từ hội nhập, song cũng đối mặt với không ít rủi ro pháp lý nếu không kiểm soát tốt vấn đề xuất xứ hàng hóa.
Hiện nay, các ngành như nông sản, thủy sản, sữa, vật liệu xây dựng tiếp tục là trụ cột trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam với kim ngạch lên tới hàng chục tỷ USD mỗi năm. Tham gia các FTA song phương và đa phương đã giúp hàng hóa Việt Nam tiếp cận sâu hơn các thị trường lớn; được hưởng mức ưu đãi thuế quan đáng kể, tạo đà cho tăng trưởng xuất khẩu.
Tuy nhiên, chính sự mở cửa mạnh mẽ này lại đặt ra những yêu cầu ngày càng khắt khe đối với quy tắc xuất xứ. Khi các cuộc xung đột thương mại, cạnh tranh chiến lược giữa các nền kinh tế lớn gia tăng, nguy cơ hàng hóa “đội lốt” xuất xứ Việt Nam để né thuế cũng ngày càng rõ nét.
Thực tế cho thấy, đã xuất hiện tình trạng một số doanh nghiệp nước ngoài lợi dụng Việt Nam như “điểm trung chuyển”, chỉ thực hiện những công đoạn gia công rất đơn giản như đóng gói, thay nhãn mác, sau đó xin cấp C/O Việt Nam để hưởng ưu đãi thuế khi xuất khẩu sang thị trường thứ ba. Nếu doanh nghiệp Việt Nam tiếp tay hoặc thiếu kiểm soát, rủi ro pháp lý không chỉ dừng ở từng doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng tới uy tín quốc gia.
Luật sư Nguyễn Thanh Hà - Chủ tịch Hãng luật SBLAW
Trên thực tế, Việt Nam đã không ít lần phải đối diện với các vụ việc liên quan đến gian lận xuất xứ, để lại hệ lụy lâu dài cho cả ngành hàng. Đơn cử, liên quan đến thép Việt Nam bị Hoa Kỳ điều tra và áp thuế chống lẩn tránh do nghi vấn sử dụng nguyên liệu từ Trung Quốc nhưng khai báo xuất xứ Việt Nam.
Trong lĩnh vực gỗ, nhiều doanh nghiệp từng bị cảnh báo và kiểm tra gắt gao do nghi vấn nhập khẩu gỗ nguyên liệu từ các quốc gia có rủi ro cao, sau đó chế biến đơn giản rồi xuất khẩu dưới danh nghĩa hàng Việt Nam.
Ở thị trường nội địa, không ít vụ việc bị phát hiện khi hàng hóa được sản xuất, gia công ở nước ngoài nhưng gắn nhãn “Made in Vietnam” để tiêu thụ trong nước. Những hành vi này đã vi phạm quy định về xuất xứ, gây tổn hại nghiêm trọng đến niềm tin của người tiêu dùng và cộng đồng doanh nghiệp làm ăn chân chính.
Theo luật sư Nguyễn Thanh Hà, nếu tình trạng gian lận xuất xứ không được kiểm soát, các quốc gia nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại trên diện rộng. Khi đó, ngay cả những doanh nghiệp tuân thủ đầy đủ quy định cũng có thể bị “vạ lây”.
Đánh giá về khả năng đáp ứng quy tắc xuất xứ của các ngành hàng Việt Nam hiện nay, luật sư Nguyễn Thanh Hà cho rằng, nhìn tổng thể, các ngành xuất khẩu chủ lực đã có nhiều thay đổi tích cực; doanh nghiệp ngày càng chú trọng hơn đến nguồn gốc nguyên liệu, tỷ lệ hàm lượng nội địa và hồ sơ chứng từ.
Tuy nhiên, thách thức lớn nhất nằm ở việc hiểu và tuân thủ đúng từng bộ quy tắc xuất xứ cụ thể trong mỗi FTA. Mỗi hiệp định, dù song phương hay đa phương, đều có quy định riêng về tiêu chí xuất xứ, phương pháp tính hàm lượng, điều kiện tự chứng nhận hoặc cấp C/O.
Các quy định trong Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) hay Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA) không hoàn toàn giống nhau. Nếu doanh nghiệp áp dụng máy móc hoặc nhầm lẫn giữa các hiệp định, rủi ro bị bác ưu đãi thuế hoặc bị điều tra gian lận là rất lớn.
Doanh nghiệp cần chủ động "nhập cuộc"
Luật sư Nguyễn Thanh Hà cho rằng, các FTA thế hệ mới đề cao tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và vai trò chủ động của doanh nghiệp. Đi kèm với đó là hệ thống chế tài rất nghiêm khắc đối với hành vi gian lận xuất xứ, nhất là gian lận trung chuyển bất hợp pháp để né thuế.
Hạn chế rủi ro và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, luật sư Nguyễn Thanh Hà đã chỉ ra những điểm doanh nghiệp cần lưu ý. Thứ nhất, tuân thủ đầy đủ Luật Quản lý ngoại thương và các nghị định hướng dẫn về xuất xứ hàng hóa, trong đó có Nghị định 31 và các quy định thay thế, sửa đổi trong thời gian tới.

Tham gia các FTA song phương và đa phương đã giúp hàng hóa Việt Nam tiếp cận sâu hơn các thị trường lớn.
Thứ hai, nghiên cứu kỹ và áp dụng đúng quy tắc xuất xứ trong từng FTA cụ thể; nắm rõ yêu cầu về C/O của thị trường nhập khẩu. Không chủ quan cho rằng, hàng hóa “sản xuất tại Việt Nam” đương nhiên đáp ứng điều kiện xuất xứ.
Thứ ba, xây dựng hệ thống lưu trữ hồ sơ, chứng từ và chứng từ điện tử khoa học, đầy đủ, có khả năng truy xuất. Khi xảy ra điều tra hoặc tranh chấp, đây là “lá chắn pháp lý” quan trọng nhất bảo vệ cho doanh nghiệp.
Thứ tư, tuyệt đối không tiếp tay cho các hành vi gian lận, trung chuyển bất hợp pháp, kể cả trong trường hợp mang lại lợi ích ngắn hạn. Bởi cái giá phải trả về lâu dài có thể là mất thị trường, mất ưu đãi thuế, thậm chí là trách nhiệm pháp lý nghiêm trọng.
Thứ năm, nêu cao vai trò của các hiệp hội ngành hàng trong việc cảnh báo sớm rủi ro, phổ biến quy định pháp luật và hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực tuân thủ. Trong bối cảnh các chuỗi cung ứng ngày càng phức tạp, tách bạch rõ ràng giữa sản xuất, gia công, logistics và trung chuyển là yêu cầu bắt buộc.
"Xuất xứ hàng hóa, hiện đã trở thành thước đo cho sự phát triển bền vững và uy tín của hàng Việt trên thị trường quốc tế. Doanh nghiệp càng tuân thủ nghiêm túc, minh bạch bao nhiêu, thì cơ hội tận dụng ưu đãi FTA và nâng cao sức cạnh tranh càng lớn bấy nhiêu"- Luật sư Nguyễn Thanh Hà nhấn mạnh.

