A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Công nghiệp tái chế: Trụ cột mới cho tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn

Trong bức tranh phát triển kinh tế của Việt Nam những năm gần đây, vấn đề xử lý rác thải công nghiệp ngày càng nổi lên như một thách thức lớn đối với mục tiêu tăng trưởng xanh và bền vững. Để giải quyết điểm nghẽn này, theo các chuyên gia, Nhà nước cần khuyến khích sản xuất trong nước các thiết bị phân loại, tái chế, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ mới thông qua ưu đãi thuế, tín dụng xanh, miễn giảm đất đai và hỗ trợ nghiên cứu chuyển giao công nghệ. 

Nhiều địa phương phải đối mặt với áp lực môi trường

Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Môi trường cho thấy, mỗi năm cả nước phát sinh khoảng 23 – 25 triệu tấn chất thải công nghiệp thông thường và khoảng 800 nghìn tấn chất thải nguy hại. Tốc độ gia tăng trung bình 10 – 12%/năm, chủ yếu tập trung tại các khu công nghiệp, cụm công nghiệp ở các vùng kinh tế trọng điểm như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh. Riêng khu vực Đông Nam Bộ hiện chiếm gần 60% tổng lượng chất thải công nghiệp của cả nước, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của các ngành chế biến, chế tạo.

Thực tế này cho thấy, cùng với quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng, sức ép đối với công tác quản lý, thu gom, xử lý chất thải công nghiệp ngày càng lớn. Báo cáo giám sát môi trường quốc gia cho biết, hiện có khoảng 70% chất thải công nghiệp được thu gom, xử lý; phần còn lại chưa được kiểm soát hiệu quả, tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm đất, nước và không khí. Đáng chú ý, một số ngành như nhiệt điện, xi măng, thép, dệt nhuộm, da giày… là nguồn phát sinh chất thải lớn, đặc biệt là tro xỉ, bùn thải, hóa chất. Đây là nguyên nhân khiến nhiều địa phương phải đối mặt với áp lực môi trường, thậm chí xảy ra sự cố ô nhiễm, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân.

Mỗi năm cả nước phát sinh khoảng 23 – 25 triệu tấn chất thải công nghiệp thông thường

Trước sức ép ngày càng gia tăng của chất thải công nghiệp, Chính phủ đã phê duyệt Chương trình phát triển ngành Công nghiệp môi trường giai đoạn 2025 – 2030 với mục tiêu đưa ngành này trở thành một trong những trụ cột của kinh tế tuần hoàn. Theo chương trình, đến năm 2030, công nghệ và sản phẩm xử lý nước thải phải đáp ứng 70 – 80% nhu cầu trong nước và có khả năng xuất khẩu; công nghệ xử lý khí thải đáp ứng 60 – 70%; xử lý chất thải rắn và chất thải nguy hại đạt khoảng 50 – 60% nhu cầu thu gom, vận chuyển, trung chuyển, phân loại và 60 – 70% nhu cầu tái chế. Bên cạnh đó, Việt Nam đặt mục tiêu tự chủ khoảng 20% thiết bị đo lường, giám sát môi trường, giảm phụ thuộc nhập khẩu và nâng cao năng lực công nghệ nội địa.

Để đạt mục tiêu này, Nhà nước đang từng bước triển khai các cơ chế ưu đãi như tín dụng xanh, chính sách thuế môi trường, hỗ trợ nghiên cứu chuyển giao công nghệ, cũng như miễn giảm chi phí đất đai cho các dự án xử lý rác công nghệ cao.

Với sự vào cuộc mạnh mẽ từ chính phủ và các bộ ngành, nhiều khu công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp đã ý thức trong việc chuyển đổi mô hình sản xuất, ứng dụng công nghệ cao trong vận hành. Đơn cử, tại Bắc Ninh, Dự án nhà máy xử lý chất thải rắn Thuận Thành có công suất 600 tấn/ngày đêm, sản xuất khoảng 100 triệu kWh điện/năm, không chỉ giảm áp lực rác thải chôn lấp mà còn đóng góp thêm cho an ninh năng lượng quốc gia. 

Ông Tetsuya Yagi - Thứ trưởng Bộ Môi trường Nhật Bản cho biết, đây là Dự án được Chính phủ và các cơ quan Bộ, ngành Việt Nam – Nhật Bản quan tâm, xúc tiến đầu tư. “Nhà máy sẽ góp phần vào việc nâng cao hiệu quả việc xử lý rác thải để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, giảm phát thải khí nhà kính. Đồng thời, thông qua những sự hợp tác công - tư giữa hai nước, Việt Nam và Nhật Bản sẽ cùng nhau hướng tới những mục tiêu lớn về bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu” - ông Tetsuya Yagi kỳ vọng.

Nhà máy điện rác Thăng Long xử lý khoảng 500 tấn rác/ngày

Tương tự, Nhà máy điện rác Thăng Long xử lý khoảng 500 tấn rác/ngày, phát điện 11 MW bằng công nghệ đốt tầng sôi hiện đại nhập khẩu từ Phần Lan. Ông Võ Chí Công - Giám đốc Nhà máy cho biết, đây là công trình điện rác đầu tiên của tỉnh, đặt nền móng cho công nghệ xử lý chất thải tuần hoàn tiên tiến, góp phần khắc phục triệt để nguồn ô nhiễm từ rác thải sinh hoạt.

Dự án có tổng mức đầu tư khoảng 1.400 tỷ đồng, diện tích xây dựng 5 ha, với công suất xử lý 500 tấn rác/ngày, phát điện 11 MW. Công nghệ nhập khẩu trực tiếp từ Phần Lan bảo đảm tính ổn định, hiệu quả, tối đa hóa hiệu suất phát điện, đồng thời xử lý khí thải đạt chuẩn trước khi thải ra môi trường. Nhà máy được kỳ vọng trở thành hạt nhân quan trọng trong công tác xử lý chất thải rắn sinh hoạt của toàn tỉnh.

Thực tế cho thấy, lợi ích của những mô hình như vậy không chỉ nằm ở việc giảm chi phí xử lý nhờ phân loại tại nguồn, mà còn ở việc hạn chế ô nhiễm, bảo vệ sức khỏe cộng đồng, tạo việc làm, thúc đẩy nghiên cứu khoa học, đóng góp vào tăng trưởng GDP và mở rộng cơ hội xuất khẩu thiết bị, sản phẩm môi trường.

Thay đổi chi phí, công nghệ, thói quen tiêu dùng

Mặc dù tiềm năng phát triển công nghiệp tái chế tại Việt Nam rất lớn, nhưng hàng loạt rào cản đang cản trở sự bứt phá. Thách thức lớn nhất nằm ở chi phí tái chế cao hơn so với sản xuất nguyên liệu nguyên sinh. Theo Hiệp hội Nhựa Việt Nam, trong bối cảnh biên lợi nhuận của doanh nghiệp bao bì nhựa chỉ khoảng 5%, việc áp dụng mức phí tái chế (Fs) như dự thảo có thể khiến chi phí tăng thêm tương đương tới 40% lợi nhuận.

Tương tự, Hiệp hội Bia - Rượu - Nước giải khát Việt Nam (VBA) và AmCham cũng nhiều lần lên tiếng lo ngại: mức phí Fs của Việt Nam dự kiến cao hơn đáng kể so với châu Âu, trong đó phí tái chế nhôm gấp 1,26 lần, thủy tinh cao hơn tới 2,12 lần. Tính toán sơ bộ, chỉ riêng với ba loại bao bì giấy, nhựa và kim loại, doanh nghiệp có thể phải đóng tới 6.127 tỷ đồng/năm – một gánh nặng khiến nhiều công ty e ngại.

Ông James Ollen - Giám đốc Điều hành AmCham Việt Nam tại TP. Hồ Chí Minh kiến nghị: “Với vật liệu có giá trị tái chế lớn hơn chi phí thu hồi như nhôm, sắt, giấy carton, nhựa cứng…, nên điều chỉnh hệ số Fs bằng 0, theo khuyến nghị Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Đồng thời cho phép doanh nghiệp kết hợp linh hoạt giữa tự tái chế và nộp phí”.

Cùng với đó, thiếu khung pháp lý mạnh mẽ và đồng bộ cũng khiến công nghiệp tái chế phát triển chậm. Trên thực tế, nhiều địa phương vẫn chưa triển khai hiệu quả phân loại rác, dẫn đến chi phí tái chế tăng thêm do doanh nghiệp phải xử lý nhiều công đoạn.

Một trở ngại khác đến từ công nghệ và thiết bị tái chế. Hầu hết dây chuyền, lò đốt, máy phân loại rác hiện đại phải nhập khẩu từ Nhật Bản, Phần Lan hay châu Âu, chi phí đầu tư cao, trong khi năng lực nội địa hóa thiết bị vẫn còn hạn chế. Hệ thống hạ tầng thu gom, trung chuyển, vận chuyển chất thải còn thiếu đồng bộ, dẫn đến chi phí logistics cao và khó mở rộng quy mô.

Ngoài ra, nhận thức của người dân và thói quen tiêu dùng cũng là rào cản. Phần lớn người dân vẫn ưu tiên giá rẻ thay vì lựa chọn sản phẩm tái chế, trong khi giá thành các sản phẩm tái chế thường cao hơn do chi phí sản xuất lớn.

Việc tăng cường phân loại rác tại nguồn cần được coi là ưu tiên số một

Để vượt qua những thách thức này, nhiều giải pháp đang được giới chuyên gia, doanh nghiệp và cơ quan quản lý đề xuất. Trước hết, cần ban hành nghị định riêng về công nghiệp môi trường và tái chế, cùng cơ chế Fs linh hoạt hơn, khấu trừ hoặc miễn phí đối với những vật liệu có giá trị tái chế cao như kim loại, giấy carton, nhựa cứng. Song song đó, việc tăng cường phân loại rác tại nguồn cần được coi là ưu tiên số một, triển khai bằng các biện pháp cụ thể như đặt thùng phân loại tại trường học, khu dân cư, siêu thị; mở rộng các mô hình “đổi rác lấy quà” vốn đã chứng minh hiệu quả ở nhiều địa phương.

Về công nghệ, các chuyên gia cho rằng, Nhà nước cần khuyến khích sản xuất trong nước các thiết bị phân loại, tái chế, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận công nghệ mới thông qua ưu đãi thuế, tín dụng xanh, miễn giảm đất đai và hỗ trợ nghiên cứu chuyển giao công nghệ. 

Trong những chính sách gần đây nhằm tăng cường công nghiệp tái chế, Bộ Công Thương đã chủ động xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn sản phẩm tái chế nhựa nhằm hướng tới sản xuất xanh và tiêu dùng bền vững. Cụ thể, theo Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương), năm 2024 đã có 3 tiêu chuẩn được hoàn thiện cho sản phẩm nhựa tái chế, và dự kiến năm 2025 sẽ có thêm 5 tiêu chuẩn mới trong lĩnh vực nhựa tái chế. Các tiêu chuẩn này nhằm quy định rõ hơn về chất lượng nhựa tái chế sử dụng lại trong sản xuất, đảm bảo an toàn và hiệu quả, đồng thời tạo hành lang pháp lý giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận công nghệ xanh dễ dàng hơn.

Để thu hẹp khoảng cách giữa quy định và thực tiễn, Bộ Công Thương đang phối hợp với các Bộ, ngành để hoàn thiện các khung hướng dẫn, phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn tại các cụm công nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng công nghệ xanh bao gồm cả việc sử dụng nhựa tái chế đạt chuẩn và tham gia thực hiện EPR qua các hình thức tự tái chế, đóng góp tài chính hoặc kết hợp cả hai.

Ngoài ra, việc hợp tác quốc tế sẽ mở ra cơ hội học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia đã thành công trong phát triển kinh tế tuần hoàn, đồng thời giúp Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu thiết bị và sản phẩm tái chế, xây dựng thương hiệu xanh mang tầm khu vực.

 


Tin liên quan

Tin nổi bật

Liên kết website