Phát triển ngành công nghiệp môi trường: Bước ngoặt tư duy chuyển từ “xử lý ô nhiễm” sang “kinh tế môi trường"
Với quan điểm hướng đến mục tiêu: Phấn đấu xây dựng và phát triển công nghiệp môi trường trở thành ngành kinh tế độc lập có đóng góp quan trọng trong cơ cấu kinh tế quốc dân; đóng vai trò chiến lược trong bảo đảm độc lập, tự chủ trong cung ứng công nghệ, thiết bị và sản phẩm công nghiệp môi trường khi xử lý các thách thức môi trường của đất nước, Chương trình phát triển công nghiệp môi trường giai đoạn 2025–2030 đánh dấu bước chuyển tư duy từ “xử lý ô nhiễm” sang “kinh tế môi trường".
Chia sẻ của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân – Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, đã làm rõ tính khả thi và những điểm khác biệt của Chương trình.
Thưa Đại biểu, ông đánh giá như thế nào về tính khả thi của các mục tiêu mà Chương trình phát triển ngành CNMT Việt Nam 2025 - 2030, trong bối cảnh năng lực doanh nghiệp và công nghệ trong nước còn hạn chế?
Đại biểu Nguyễn Quang Huân: Các mục tiêu của Chương trình phát triển ngành công nghiệp môi trường (CNMT) đến năm 2030 có ý nghĩa chiến lược, song mức độ khả thi phụ thuộc vào nhiều yếu tố nền tảng.
Thứ nhất, hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật của Việt Nam còn thiếu và chưa đủ tạo hành lang pháp lý vững chắc cho phát triển ngành CNMT. Đơn cử như quy chuẩn về nhà máy xử lý rác thải còn khá đơn giản, doanh nghiệp có thể đáp ứng nhưng vẫn tiềm ẩn rủi ro ảnh hưởng sức khỏe cộng đồng. Vì vậy, Việt Nam cần tham khảo, tiếp thu và nội địa hóa các bộ quy chuẩn quốc tế, đồng thời hoàn thiện khung thể chế, chính sách liên quan để đảm bảo tính thống nhất và khả thi.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quang Huân - Ủy viên Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội
Thứ hai, cơ quan quản lý cần song hành cùng doanh nghiệp trong quá trình triển khai, vừa giám sát việc thực thi nghiêm minh, kịp thời tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp hoàn thiện công nghệ, sản phẩm.
Thứ ba, đổi mới công nghệ là yếu tố then chốt. Hiện đa số doanh nghiệp CNMT có quy mô nhỏ, còn phụ thuộc vào thiết bị và công nghệ nhập khẩu; năng lực nghiên cứu, chế tạo trong nước còn hạn chế, hệ sinh thái đổi mới sáng tạo mới ở giai đoạn hình thành. Vì vậy, cần có chính sách hỗ trợ nghiên cứu, phát triển vật liệu và thiết bị trong nước, gắn với đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật chất lượng cao.
Về mục tiêu đưa CNMT trở thành ngành kinh tế độc lập, có khả năng tự chủ về công nghệ, tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu – đây là mục tiêu đầy tham vọng, nhưng hoàn toàn có thể đạt được nếu có lộ trình rõ ràng và tiêu chuẩn cụ thể. Ví dụ, các chỉ tiêu nội địa hóa 70–80% công nghệ xử lý nước thải, 60–70% công nghệ xử lý khí thải hay tái chế chất thải rắn chỉ có ý nghĩa khi được gắn với tiêu chuẩn kỹ thuật cao. Nếu quy chuẩn đặt ra thấp, dù đạt tỷ lệ cao cũng không bảo đảm chất lượng, khó vươn ra thị trường quốc tế.
-Theo ông, đâu là “điểm nghẽn” lớn nhất khiến ngành CNMT nước ta phát triển chậm, dù đã có nhiều chính sách, đề án trước đó?
Đại biểu Nguyễn Quang Huân: Điểm nghẽn lớn nhất là thể chế và chính sách pháp luật. Phát triển ngành CNMT cần dựa trên nền tảng phát triển kinh tế xanh. Nhưng hiện nay nội hàm về kinh tế xanh vẫn chưa được định nghĩa rõ ràng, hay nguyên tắc thực hiện theo mô hình phát triển bền vững ESG hiện nay vẫn chưa được nhiều doanh nghiệp hưởng ứng. Thế giới hiện nay có hơn 600 bộ tiêu chí về ESG nhưng chưa có bộ tiêu chí nào được nội địa hóa.
Một điểm nghẽn lớn khác nằm ở công nghệ. Việt Nam hiện chưa hình thành được thị trường ứng dụng khoa học – công nghệ đủ rộng và hiệu quả như các quốc gia phát triển. Phần lớn các nghiên cứu trong nước vẫn tập trung vào đề tài cơ bản, thiếu tính ứng dụng thực tiễn, nên chưa tạo được động lực đổi mới cho doanh nghiệp – đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực môi trường.

Thu hồi tro xỉ tại Nhiệt điện Duyên Hải phục vụ cho sản xuất vật liệu xây dựng
Cùng với đó, sự kết nối giữa các doanh nghiệp trong ngành còn yếu. Các doanh nghiệp tiên phong về công nghiệp môi trường cần có năng lực quản trị theo chuẩn ESG, am hiểu khoa học – công nghệ và có khả năng hợp tác quốc tế. Muốn rút ngắn khoảng cách với doanh nghiệp nước ngoài, Việt Nam phải “đứng trên vai người khổng lồ”, tăng cường liên kết, tận dụng tri thức và công nghệ toàn cầu để bứt phá sáng tạo.
Bên cạnh đó, thị trường và tài chính xanh chưa hình thành rõ nét. Các doanh nghiệp hiện chưa được tiếp cận rộng rãi dù Việt Nam đang có nhiều nguồn vốn xanh. Hay các đối tác chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP) nhưng chưa được áp dụng tại Việt Nam. Nhà nước và các Bộ, ngành cần vào cuộc để hỗ trợ doanh nghiệp tăng cơ hội tiếp cận những nguồn tài chính này.
- Chương trình lần này khác gì so với các chương trình, chiến lược trước đây như Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia hay Chiến lược tăng trưởng xanh? Liệu sự khác biệt này có đủ để tạo bước ngoặt thực chất cho ngành thưa ông?
Đại biểu Nguyễn Quang Huân: Chương trình là bước chuyển từ định hướng “bảo vệ môi trường” sang phát triển “kinh tế môi trường”. Đây chính là khác biệt lớn nhất so với các chiến lược trước đây như Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia hay Chiến lược tăng trưởng xanh.
Thứ nhất, chuyển đổi tư duy tiếp cận. Chương trình lần này nhìn nhận môi trường không chỉ là lĩnh vực quản lý mà là một ngành công nghiệp và kinh tế độc lập, có giá trị gia tăng và đóng góp vào GDP. Nói cách khác, “bảo vệ môi trường” không còn là gánh nặng chi phí, mà trở thành nguồn lực và động lực cho tăng trưởng xanh.
Thứ hai, chuyển trọng tâm từ quản lý sang phát triển thị trường. Lần đầu tiên, Chương trình đặt mục tiêu hình thành thị trường hàng hóa và dịch vụ công nghiệp môi trường, với cơ chế định giá, tiêu chuẩn kỹ thuật, dán nhãn sản phẩm và xúc tiến thương mại trong và ngoài nước. Đây là bước đột phá giúp biến công nghệ, thiết bị và giải pháp xử lý môi trường thành hàng hóa thương mại thực thụ, mở ra không gian phát triển mới cho doanh nghiệp Việt Nam.
Thứ ba, khẳng định vai trò trung tâm của doanh nghiệp và đổi mới sáng tạo. Chương trình coi doanh nghiệp tư nhân là hạt nhân phát triển, được hỗ trợ thông qua các công cụ chính sách, tài chính và chuyển giao công nghệ – hướng tới hình thành hệ sinh thái CNMT có năng lực cạnh tranh toàn cầu.
Thứ tư, thiết lập lộ trình rõ ràng và cơ chế điều phối thống nhất. Với Bộ Công Thương là cơ quan chủ trì, Chương trình phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị, khắc phục hạn chế cố hữu của các đề án trước đây, vốn thiếu đầu mối điều phối, dẫn đến triển khai dàn trải, thiếu hiệu quả.
- Một trong những mục tiêu của Chương trình là hình thành hệ sinh thái CNMT và doanh nghiệp môi trường quy mô lớn. Theo ông, cơ chế nào là then chốt để thu hút đầu tư tư nhân và doanh nghiệp FDI tham gia lĩnh vực này?
Đại biểu Nguyễn Quang Huân: Theo tôi trước hết cần phải hoàn thiện thẻ chế chính sách. Chính sách cần minh bạch rõ ràng và dài hạn, tạo niềm tin cho nhà đầu tư. Thứ hai là phải tạo ra được một thị trường khoa học, công nghệ nâng cao tính ứng dụng. Thứ ba là áp dụng công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, công nghệ mới để nâng cao năng suất, tăng hàm lượng tri thức và tạo ra giá trị gia tăng. Và cuối cùng là cần tạo điều kiện để doanh nghiệp FDI “neo trụ” tại Việt Nam, lan tỏa công nghệ cho doanh nghiệp nội địa. Điều này sẽ giúp tránh tình trạng lúc đầu dễ dàng nhưng sau bị thắt chặt, hay việc đánh giá qua loa, lỏng lẻo lúc đầu nhưng lại “siết” họ trong quá trình làm.
- Chương trình nhấn mạnh phát triển các trung tâm CNMT vùng, liên kết chuỗi giá trị xử lý chất thải – tái chế – tái sử dụng. Ông đánh giá như thế nào về tính thực tiễn của mô hình này, nhất là ở các địa phương có quy mô kinh tế khác nhau?
Đại biểu Nguyễn Quang Huân: Theo tôi mô hình này có tính thực tiễn cao trong bối cảnh hướng tới kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Quan trọng là cần xem đây là một phần của kinh tế xanh, trên cơ sở địa phương phải hiểu được thế nào là kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn để có cơ sở chủ động áp dụng tùy theo thực tế và năng lực của mình.

Hệ thống xử lý nước thải hiện đại được đầu tư tại Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải
Các địa phương cũng cần có quy hoạch thống nhất về định hướng phát triển công nghiệp môi trường, từ đó sẽ phân loại ngành nghề tái sử dụng, tái chế. Tái chế, tái sử dụng là mô hình phát triển xanh, đồng nghĩa với đổi mới công nghệ, tiết kiệm năng lượng, đảm bảo thân thiện môi trường. Các địa phương cần hiểu và đảm bảo các yếu tố xanh nằm trong tổng thể yêu cầu của kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, từ đó mới có cách làm đúng.
-Với vai trò của Ủy ban KHCN&MT Quốc hội, ông cho rằng công tác giám sát việc thực hiện Chương trình nên tập trung vào những nội dung trọng tâm nào để bảo đảm mục tiêu đến năm 2030 khả thi và hiệu quả?
Đại biểu Nguyễn Quang Huân: Trước hết là tập trung giám sát việc triển khai các bộ luật về Bảo vệ môi trường và các luật liên quan đến ngành nghề công nghiệp khác nhau. Cùng với đó là giám sát việc ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến phát triển xanh, phát triển tuần hoàn. Các chính sách này phải có sự hỗ trợ cho Chương trình. Nếu xem Chương trình này là lõi thì các chính sách ban hành phải bổ trợ, như vậy mới đảm bảo tính hệ thống, đồng bộ và khả thi
Song song đó, giám sát việc bố trí và sử dụng nguồn lực tài chính. Ủy ban cần kiểm tra hiệu quả sử dụng vốn, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, lãng phí, hoặc chồng chéo giữa các bộ, ngành. Cần có tiêu chí rõ ràng để đánh giá hiệu quả từng dự án như: tỷ lệ nội địa hóa công nghệ, mức giảm phát thải, hay số doanh nghiệp CNMT được hình thành. Một đồng vốn chi ra phải được đo bằng hiệu quả môi trường chứ không chỉ bằng tiến độ giải ngân.
Cuối cùng là năng lực triển khai của các cơ quan chủ trì và phối hợp. Chương trình được Bộ Công Thương chủ trì, nhưng liên quan chặt chẽ đến Bộ NN&MT, Bộ KH&CN, Bộ Tài chính và các địa phương. Ủy ban cần giám sát cơ chế phối hợp liên ngành, vì đây là điểm yếu cố hữu trong nhiều chương trình trước. Nếu sự phối hợp không thông suốt. Ví dụ, Bộ KH&CN chưa kịp ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật, Bộ Tài chính chậm bố trí vốn, hay địa phương thiếu hướng dẫn, thì chương trình khó đạt mục tiêu.
-Ông kỳ vọng điều gì ở Chương trình lần này, nếu được triển khai quyết liệt và đồng bộ, trong việc đưa CNMT trở thành một trụ cột của nền kinh tế xanh, tuần hoàn?
Đại biểu Nguyễn Quang Huân: Nếu Chương trình được triển khai quyết liệt và đồng bộ, tôi kỳ vọng đây sẽ là bước ngoặt đưa Việt Nam chuyển từ “xử lý ô nhiễm” sang “kinh tế môi trường”. Điều này sẽ tạo tiền đề cho phát triển kinh tế xanh, thay đổi tư duy “muốn bảo vệ môi trường thì phải giảm tốc độ phát triển kinh tế”, hay “muốn tăng trưởng nhanh thì phải hi sinh môi trường”.

Tro xỉ của các nhà máy nhiệt điện, hóa chất được Công ty CP Sông Đà Cao Cường tái chế sản xuất thành bê tông khí chưng áp
Chương trình có thể tạo ra hệ sinh thái CNMT với các trung tâm vùng, doanh nghiệp sản xuất thiết bị công nghệ xanh, và chuỗi giá trị xử lý - tái chế - tái sử dụng vận hành hiệu quả.
Nếu tận dụng tốt cơ chế tài chính xanh, đổi mới sáng tạo và hợp tác quốc tế, Việt Nam hoàn toàn có thể hình thành thế hệ doanh nghiệp môi trường mạnh, làm chủ công nghệ, tạo việc làm và xuất khẩu sản phẩm xanh, biến ngành này thành một trụ cột của nền kinh tế tuần hoàn và phát triển bền vững. Cần coi đây là cơ hội tốt để doanh nghiệp bứt phá và cạnh tranh được với các doanh nghiệp ESG của quốc tế.
Xin trân trọng cảm ơn đại biểu!

